Kỷ niệm 175 năm ngày mất danh nhân Lê Đại Cang: Người dành hết trí lực cống hiến cho đất nước
Lê Ðại Cang (1771 - 1847), tự là Thống Thiện, hiệu là Kỳ Phong, người thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước. Nhà nghèo, lại sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, nhưng bằng con đường khổ học đầy ý chí và nghị lực, Lê Ðại Cang trở thành một danh nhân lịch sử nổi tiếng vào nửa đầu thế kỷ XIX.
1. Trong Lê thị gia phả - tác phẩm viết khi về hưu, Lê Đại Cang tự bạch: “Hơn 10 năm ở nơi lánh địa, tôi bên trong tuy học được thi lễ từ cha, nhưng bên ngoài... còn thiếu thầy giỏi dạy bảo. Đến lúc thiếu niên chỉ biết học mà thôi, gọi là tuần tự mà học thì không kịp vậy”. Năm 16 tuổi, may mắn được học với thầy giỏi, ông “trong 5, 6 năm, lúc ngủ lúc ăn đều ra sức luyện rèn. Phàm gặp được bạn đồng văn liền tới cầu học hỏi, chẳng ngại cười chê là lỗ mãng” (Lê thị gia phả).
Việc học thực và rất giỏi tự học đã giúp ông trong 41 năm làm quan đã nhanh chóng làm được nhiều việc lớn khắp trong Nam ngoài Bắc, nhiều công trình của ông có đủ ý nghĩa, tác dụng đến hôm nay; sự nghiệp kinh bang tế thế đồ sộ của ông gần như không mấy người có được.
Nổi tiếng văn võ song toàn, Lê Đại Cang đảm đương nhiều chức vụ quan trọng khác nhau như Hiệp trấn Sơn Tây, Cai bạ Quảng Nam, Tham tri bộ Hình, Quản lý đê điều Bắc Thành, quyền Tổng trấn Bắc Thành, Binh bộ Thượng thư kiêm Đô sát viện, Tổng đốc Sơn Tây- Hưng Hóa - Tuyên Quang, Tổng đốc Hà Nội, Tổng đốc An Giang - Hà Tiên, Trấn Tây Tham tán đại thần...
2. Được vua cử làm việc ở Bắc thành ba lần, Lê Đại Cang đã có nhiều đóng góp quan trọng nơi đây. Ông là người biết lo cho sự yên vui của dân, cụ thể đã có công ban bố và thi hành luật pháp nghiêm minh, góp phần tuyển chọn nhân tài thông qua kỳ thi Nho học ở Bắc thành, nhưng công lao đặc biệt quan trọng để đời của ông là làm “tổng công trình sư” việc đắp đê ở Bắc thành. Khi nhà Nguyễn lên ngôi, với những đời vua đầu, Bắc thành là vùng đất mới, tồn tại nhiều mắc míu, khó khăn mà nghiêm trọng nhất, cần phải khắc phục trước tiên là nạn vỡ đê, lụt lội. Tháng 10.1828, khi ra Bắc nhận nhiệm vụ ông được vua Minh Mạng đặc biệt lưu ý vấn đề trị thủy. Nhờ tận tụy ngày đêm làm việc, Lê Đại Cang nhanh chóng tường tận về địa hình, thủy văn, đặc điểm dòng chảy... đồng thời cho triển khai xây dựng nhiều tuyến đê mới, sửa đắp, khơi đào nạo vét dòng tổng cộng 18 sở đê thuộc hệ thống đê điều của hai dòng sông đặc biệt quan trọng ở Bắc thành là sông Hồng và sông Ngũ Huyện Khê, tất cả đều là đại công trình. Điều đáng nói là toàn bộ khối lượng công việc đồ sộ ấy từ lúc bắt đầu đến khi hoàn thành chỉ mất 10 tháng - từ 12.1828 đến tháng 10.1829. Việc hoàn thành công trình này đã nói lên tài năng và trí tuệ phi thường của Lê Đại Cang.
Từ tháng 11.1832 đến tháng 7.1841, ông được vua cử vào miền Nam, bổ nhiệm Tổng đốc An Giang - Hà Tiên, kiêm lĩnh ấn Bảo hộ Chân Lạp quốc. Trong nhiệm vụ mới, Lê Đại Cang dốc lòng tận tụy phục vụ việc công với nhiều đóng góp lớn: Xây dựng thành An Giang; đào sông nối sông Tiền Giang ở Tân Thành với sông Hậu Giang ở Châu Đốc; vỗ yên dân chúng; đánh dẹp quân phản loạn; củng cố binh lực; thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo với các nước láng giềng; giữ yên bờ cõi…
Năm 1741, khi về hưu, Lê Đại Cang chủ trì xây dựng Văn chỉ Tuy Phước (nay là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh) nhằm mục đích khuyến học.
- Trong ảnh: Sinh viên người Tuy Phước dâng hương tại Văn chỉ Tuy Phước vào dịp tết Nguyên đán. Ảnh: N.H.S
3. Đời làm quan của Lê Đại Cang gặp nhiều biến cố, nhưng có 2 biến cố đặc biệt quan trọng mà từ đó có thể thấy được “nhân cách của một bậc quốc sỉ”. Biến cố thứ nhất xảy ra vào tháng 5.1833: Nguyên Tả quân, Vệ úy Nguyễn Văn Khôi làm loạn, chiếm giữ thành Phiên An (Gia Định), sau đó xâm phạm tỉnh Biên Hòa, tỉnh lỵ thất thủ. Dù Lê Đại Cang khi đó làm Tổng đốc An Giang - Hà Tiên nhưng vẫn bị cách chức xuống làm lính, cho ra trận tiền lập công chuộc tội. Biến cố thứ hai xảy ra vào năm 1838, sau vụ nổi dậy của người Cao Miên vào đầu năm 1838, Lê Đại Cang bị hạch tội là Tham tán Đại thần Trấn Tây mà không hoàn thành nhiệm vụ cai trị, nên bị vua cách chức cho làm lính khiêng võng. Sau đó, Lê Đại Cang lại bị vua Minh Mạng xử tội “Trảm giam hậu” (giam rồi trảm sau) vì đang bị tội “cách lưu” mà lại dám tự tôn mình là đại tướng. Nhưng may mắn thay, cuối cùng những nỗi oan khuất của ông cũng được làm rõ và ông vẫn được vinh danh. Sử sách triều Nguyễn, nhất là bộ Đại Nam thực lục đã ghi chép khá tỉ mỉ về hành trạng làm quan của Lê Đại Cang với trên 200 đoạn, hàng vạn chữ.
Hoạn lộ sóng gió là thế nhưng chưa bao giờ ông chán nản, bi lụy mà luôn vươn lên, dốc hết sức mình làm tròn bổn phận của mình với đất nước. Tận hiến cho dân tộc, cho nhân dân là quan niệm sống của Lê Đại Cang và đó là cốt lõi nhân cách của ông.
NGÔ HỒNG SƠN