Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột”:
Kích thích sự sáng tạo
Việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” (BTNB) vào dạy học đã kích thích sự đầu tư, suy nghĩ nhiều hơn, giúp GV nâng cao kỹ năng tổ chức các hoạt động dạy học. HS được tham gia thí nghiệm, tự đưa ra đánh giá, thảo luận, so sánh kết quả để đi đến kết luận. Do đó, tiết học trở lên sinh động, hiệu quả hơn.
Đó là đánh giá chung của Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Cao Văn Bình sau 3 năm triển khai phương pháp BTNB tại Bình Định.
Năm học 2012-2013, phương pháp BTNB được thí điểm tại 2 trường: Tiểu học Nguyễn Văn Cừ (Quy Nhơn) và Tiểu học số 2 thị trấn Diêu Trì (Tuy Phước). Một năm sau, phương pháp này đã được nhân rộng ở 28 trường Tiểu học (260 lớp, 8.700 HS); các trường còn lại tiếp tục triển khai vào một số nội dung trong các môn Tự nhiên - Xã hội (đối với lớp 1, 2, 3) và môn Khoa học (đối với lớp 4, 5) cho phù hợp với điều kiện của trường và khả năng tiếp thu của HS.
Ở cấp THCS, hiện có 149/149 trường thực hiện hiệu quả phương pháp này ở các khối lớp 6, 7, 8; trong đó có 15 trường được chọn dạy thí điểm. Các môn học áp dụng phương pháp này là Vật lý, Sinh học, Hóa học và Công nghệ.
Phương pháp dạy “mở”
Sau 2 năm học triển khai phương pháp BTNB, cô giáo Phan Minh Hà, Trường Tiểu học Ngô Mây (Quy Nhơn) đã đưa ra nhận định này. “Vai trò của GV không phải là truyền thụ những kiến thức khoa học dưới dạng thuyết trình, trình bày như trước đây mà giúp HS xây dựng kiến thức bằng cách cùng hành động với các em. HS phải tự làm các thực nghiệm để tiếp thu kiến thức khoa học, tự tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu”- cô Hà cho biết.
BTNB là phương pháp dạy khoa học dựa trên cơ sở của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự nhiên. Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư người Pháp Georges Charpak (Giải Nobel Vật lý năm 1992), hướng đến dạy học tích cực, HS là trung tâm. Dưới sự giúp đỡ của GV, chính HS tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho mình.
Ở Việt Nam, phương pháp BTNB đã được đưa vào nhờ các hoạt động giới thiệu và tổ chức tập huấn của Giáo sư Trần Thanh Vân và Tổ chức Gặp gỡ Việt Nam hơn 10 năm qua. Nhận thấy lợi ích của phương pháp BTNB, Bộ GD&ĐT đã quyết định triển khai thử nghiệm trên diện rộng ở hàng chục tỉnh từ năm 2011 và chính thức triển khai đại trà ở cấp Tiểu học và THCS từ năm học 2013-2014.
Phương pháp BTNB được đưa vào Trường Tiểu học Ngô Mây từ năm học 2012-2013. Năm học vừa rồi, trường đã có 32 tiết dạy BTNB (môn Tự nhiên xã hội 22 tiết, Khoa học 10 tiết). Hiệu trưởng Trường Tiểu học Ngô Mây đúc kết: “Phương pháp mới này được trường triển khai ở tất cả các lớp và chọn 2 lớp để làm chuyên sâu. Kết quả bước đầu, GV đã tạo dựng được không khí sôi nổi, vui vẻ, năng động, xử lý tình huống nhanh. HS tự tin, mạnh dạn đưa ra ý kiến riêng, phát huy tính chủ động sáng tạo”.
Dẫn chứng bằng tiết học ở môn Khoa học tại lớp 4G với bài “Nước có những tính chất gì?”, sau khi cô Hà đặt câu hỏi đầu tiên: “Em thường thấy nước ở những nơi nào?”, ngay lập tức rất nhiều đáp án và câu hỏi giả định được HS đưa ra. Để giải quyết cho những câu hỏi này, 30 HS của lớp được chia thành 5 nhóm, ngồi theo hình chữ U để làm các thí nghiệm và thảo luận. Trải qua 5 thí nghiệm với các vật liệu do GV cung cấp và các em tự tìm, từng nhóm HS đã giải đáp 5 nhóm vấn đề chính được xác định từ đầu: màu, mùi, vị; hình dạng; sự chảy; hòa tan; thấm hay không thấm.
“Giờ học hoàn toàn bằng phương pháp BTNB như thế này tạo hứng thú học tập với tất cả HS. Mỗi nhóm có thể tìm một hướng đi khác nhau, có những giả thiết khác nhau. Kết quả có thể đúng hoặc sai, nhưng với sự định hướng nội dung bài học của GV, hiệu quả cuối cùng là các em HS nắm bài sâu hơn, chắc hơn khi được tự suy nghĩ, tự quan sát, tự làm”, cô Hà phân tích.
Tiết học linh hoạt hơn
Trong năm học 2014-2015, Sở GD&ĐT sẽ nhân rộng phương pháp BTNB tại 11/11 huyện, thị xã, thành phố. Và, ở giai đoạn “chập chững” này vẫn còn không ít khó khăn.
Theo nhiều hiệu trưởng của các trường đã triển khai BTNB, để áp dụng phương pháp này, quan trọng là GV phải có kiến thức vững và khả năng linh hoạt để ứng phó với mọi tình huống bất ngờ xảy ra trong tiết học. Không phải GV nào cũng đáp ứng được 2 yêu cầu này. “Các GV trẻ năng động thì hào hứng, nhưng một số GV lớn tuổi thì còn “ngại” thay đổi cách dạy và học”, thầy Võ Hồng Việt, Phó hiệu trưởng phụ trách Trường THCS Bồng Sơn (Hoài Nhơn), cho hay. Trường THCS Bồng Sơn triển khai phương pháp này vào năm học 2012-2013, ở các khối lớp, với 2 môn Vật lý và Sinh học.
Theo Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển, phương pháp BTNB đã có lý thuyết sư phạm từ lâu, nhưng chưa có điều kiện áp dụng vào thực tế. Ngày 17.7, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển đã đến các trường có triển khai, nghe báo cáo và nắm tình hình thực hiện. “Bình Định là một trong những địa phương làm tốt phương pháp dạy học này”, ông Hiển đánh giá.
Đặc trưng của phương pháp BTNB là không khống chế về mặt thời gian. Trong khi đó, chương trình các môn học ở bậc Tiểu học, THCS hiện nay còn nặng về lý thuyết, lượng kiến thức cần cung cấp trong một tiết học tương đối nhiều nên việc áp dụng phương pháp mới này gặp không ít khó khăn. “Với quy định tiết học và thời lượng như hiện nay thì rất khó đáp ứng yêu cầu của phương pháp BTNB. Chỉ ở một số trường có tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày, các thầy cô linh hoạt bố trí thời gian thì mới có thể chuyển tải hết các nội dung được”, Trưởng phòng GD&ĐT TP Quy Nhơn Phan Văn Chung nhận định.
Thêm vào đó là khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài liệu. Ông Cao Văn Bình nêu một thực tế là bàn ghế HS hiện đã được đầu tư thay thế nhiều, nhưng vẫn còn một số lượng không nhỏ bàn ghế cũ, đa số được bố trí theo dãy nối tiếp nhau và dính liền. Do đó, khi có nhu cầu sắp xếp theo nhóm sẽ rất khó khăn, mất thời gian, thậm chí có lớp không tổ chức thực hành theo nhóm được. Trang thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ cho việc giảng dạy chưa đầy đủ, chưa đảm bảo tính chính xác, khoa học.
Trước nhiều khó khăn, các trường học đã tìm cách “xoay sở” để phát huy hiệu quả của phương pháp BTNB. Khi áp dụng vào thực tế giảng dạy, mỗi tiết học theo phương pháp này đều được Trường Tiểu học Ngô Mây linh động kéo dài thêm 10-15 phút. Các tổ chuyên môn và GV có thể lựa chọn một số bài để dạy và tăng dần theo từng năm. Ngoài ra, GV có thể linh hoạt ứng dụng những đồ dùng đơn giản từ những vật liệu sẵn có hoặc do GV, HS tự làm để phục vụ bài giảng.
THU HIỀN