KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ VỀ ĐÌNH CHỈ CHIẾN SỰ Ở VIỆT NAM (20.7.1954 - 20.7.2014)
Ký ức về những năm tháng tập kết ra Bắc
Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 quy định Cảng Thị Nại (Quy Nhơn) là một trong 3 điểm của miền Nam được chọn là điểm 300 ngày chuyển quân tập kết ra Bắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dù 60 năm đã trôi qua nhưng ký ức về những năm tháng lên tàu tập kết ra Bắc vẫn hằn sâu trong trí nhớ của những người trong cuộc.
Ra đi để trở về
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký ngày 20.7.1954 quy định lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời để lực lượng hai bên tập kết, Quân đội nhân dân Việt Nam tập kết ở phía bắc, quân đội liên hiệp Pháp ở phía nam. Giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không có giá trị là ranh giới chính trị hay lãnh thổ. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời đặt dưới sự quản lý của đối phương và quy định thời hạn tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam vào tháng 7.1956.
Bình Định là khu vực 300 ngày và Cảng Thị Nại là điểm duy nhất để đưa các lực lượng trong Liên khu 5 tập kết ra miền Bắc. Số lượng người ra đi rất lớn, gồm toàn bộ lực lượng vũ trang, phần lớn cán bộ, các đội thanh niên xung phong, một số gia đình cán bộ, một số con em cán bộ và học sinh do gia đình gởi ra miền Bắc học tập.
Bà Phạm Thị Duyên (76 tuổi, ở phường Lê Hồng Phong, TP Quy Nhơn), nhớ lại: Tháng 9.1954, lúc đó tôi mới 16 tuổi đang là thanh niên xung phong thì được lệnh xuống Quy Nhơn để lên tàu ra Bắc tập kết. Tôi phải đi bộ từ Nhơn Hòa (An Nhơn) xuống Quy Nhơn và lên tàu của Liên Xô. Do lần đầu tiên đi biển nên vừa bước lên tàu là tôi đã say sóng cho đến khi tàu cập bờ ở Sầm Sơn (Thanh Hóa) phải mất 10 ngày sau mới hết say sóng. Ngày đó, tất cả chúng tôi bước lên tàu đều thầm hứa sẽ quyết tâm học tập, rèn luyện, lao động giỏi để một ngày không xa trở về giải phóng quê hương, giải phóng đất nước, gặp lại người thân”. Sau khi đến Thanh Hóa, bà Duyên được đưa ra Hà Nội và cho đi học văn hóa, đến năm 1967 tốt nghiệp đại học ngành tài chính được cấp trên điều về lại Bình Định công tác ở Ban Tài mậu tỉnh. Và những ngày ở miền Bắc, bà Duyên đã may mắn gặp lại người hàng xóm cũng đi tập kết ra Bắc trên chuyến tàu của Ba Lan tháng 5.1955 tại Cảng Thị Nại, đó là đại tá Nguyễn Trọng Lư, nguyên Chủ tịch Hội CCB tỉnh. Trong thời gian học tập, huấn luyện ở miền Bắc, bà Duyên và ông Lư tìm hiểu nhau rồi tổ chức cưới nhau trước khi trở vào Nam công tác, chiến đấu. Giờ đã bước sang tuổi 79 nhưng khi nhắc đến những ngày lên tàu tập kết ra Bắc, đại tá Nguyễn Trọng Lư vẫn nhớ như in: “Khi bước xuống tàu dù xa gia đình, xa người thân ai cũng quyến luyến nhưng tất cả đều phấn khởi, quyết tâm ra Bắc sẽ cố gắng rèn luyện, huấn luyện giỏi để một ngày không xa quay trở lại quê hương”.
Hẹn 2 năm thành 20 năm
Theo đại tá Nguyễn Trọng Lư, Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định thời hạn tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam vào tháng 7.1956 nên ai cũng tin là sau hai năm ra Bắc tập kết sẽ trở về, trước khi lên tàu chúng tôi vẫy tay tạm biệt nhau bằng cách giơ hai ngón tay lên hàm ý hai năm sẽ gặp lại nhưng không ngờ cuộc ra đi đó kéo dài đến 20 năm.
Đại tá Phạm Viết Thường (79 tuổi, ở phường Trần Phú, TP Quy Nhơn), nguyên Chủ tịch Hội CCB phường Trần Phú, lên chuyến tàu ra Bắc tập kết vào tháng 2.1955, xúc động kể: “Lúc đó tôi đang là báo vụ viên của Phòng tham mưu Liên khu 5, gia đình sống ở Đức Phổ, Quảng Ngãi thì được lệnh theo đơn vị vào Quy Nhơn để tập kết ra Bắc. Chúng tôi phải di chuyển bằng xe gòn chạy trên đường ray xe lửa đến Diêu Trì rồi đi bộ xuống Quy Nhơn. Trước khi ra đi tôi hứa hẹn với cha, bởi lúc đó mẹ tôi đã mất là 2 năm sẽ về gặp lại. Vậy mà chuyến đi biền biệt cho đến năm 1968 được cấp trên điều về chiến trường khu 5 chiến đấu, tôi mới bí mật về thăm gia đình, hai cha con gặp nhau mừng không sao tả xiết”.
Còn ông Hoàng Minh Tùng (82 tuổi, ở phường Lê Hồng Phong, TP Quy Nhơn) là một trong số những người lên chuyến tàu cuối cùng tập kết ra Bắc vào ngày 15.5.1955, kể: Cảng Thị Nại hôm ấy đông nghẹt kẻ đi, người ở, tiễn đưa bùi ngùi. Người ở lại nhắn nhủ người ra đi phải cố gắng học tập, rèn luyện trưởng thành, xây dựng quân đội, miền Bắc hùng mạnh. Người ra đi dặn người ở lại phải giữ vững niềm tin, khí tiết cách mạng. Mọi người hẹn 2 năm nữa sẽ được trùng phùng, vậy mà cuộc chia tay hôm đó phải đến cuối năm 1975 tôi mới về lại Quy Nhơn, gặp lại gia đình”.
Bà Nguyễn Thị Khương (79 tuổi, ở phường Ngô Mây, TP Quy Nhơn) bồi hồi nhớ lại: “Vợ chồng chúng tôi mới cưới nhau được mấy tháng thì ông ấy đi tập kết vào tháng 9.1954. Từ Phù Cát tôi đi bộ ra Cảng Thị Nại tiễn chồng. Trước khi lên tàu, anh ấy hẹn nhau hai năm nữa vợ chồng sẽ đoàn tụ và chúng tôi thề hẹn với nhau nếu còn sống thì phải chờ nhau. Cuộc chia tay ngỡ chỉ 2 năm đã kéo dài cho đến 20 năm sau. Tháng 4.1974, đang công tác ở chiến trường Quân khu 5 thì ổng tìm đến đơn vị tôi công tác đóng trên núi ở xã Cát Sơn (Phù Cát), gặp mặt nhau mà tôi không thể nhận ra ổng, bởi đúng 20 năm xa cách mới gặp lại”.
NGUYỄN PHÚC