Một bến đỗ của Hùng kê quyền
Những cuộc truy lùng và bố ráp của nhà Nguyễn không chỉ làm cho dòng họ của anh em nhà Tây Sơn bị tuyệt diệt mà những tinh hoa của vương triều ấy cũng thất truyền. Bài Hùng kê quyền được cho là của Đông Định Vương Nguyễn Lữ cũng nằm trong số đó. Như một sự sắp đặt của lịch sử, Hùng kê quyền đã ra tận Quảng Ngãi và chọn thôn Điền Chánh, xã Nghĩa Điền, huyện Tư Nghĩa làm bến đỗ.
Võ sư Ngô Bông - sinh năm 1926 tại thôn Điền Chánh, xã Nghĩa Điền, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi - được xem như người “cai quản” bến đỗ đó và thành truyền nhân của bài võ có một không hai này. Võ sư tài đức vẹn toàn Ngô Bông đã phục dựng toàn bộ bài Hùng kê quyền - một thế võ dựa vào những đặc tính huyền ảo và dũng mãnh của gà chọi được Nguyễn Lữ khai sinh.
TỪ MỘT BÀI THIỆU
Võ sư Ngô Bông mồ côi cha mẹ từ rất sớm. Ông được bà ngoại cùng những người cậu nuôi dưỡng từ bé. Các cậu của ông: Năm Chót, Sáu Huy, Bảy Thủy đều là những võ sư lừng danh từ những năm đầu của thế kỷ trước, không chỉ trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi mà cả khu vực miền Trung.
Gia phả họ Ngô chép lại rằng, ông cố ngoại của Ngô Bông vốn là một thầy dạy võ, lại tinh thông binh pháp. Đất nước tao loạn, ông gia nhập nghĩa quân Tây Sơn và nhanh chóng trở thành thuộc hạ tin cẩn của Đông Định vương Nguyễn Lữ. Chính bài Hùng kê quyền của Nguyễn Lữ đã được ông cố của Ngô Bông “giữ lửa” ngay từ thời ông còn đầu quân cho nhà Tây Sơn và truyền lại cho hậu bối của mình. Ngô Bông lớn lên cũng nối nghiệp võ của gia đình nhưng bài Hùng kê quyền thì chàng trai mê võ ấy lại không “đi” trọn. Ông chỉ nhớ nội dung bài thiệu được các cậu truyền lại mà thôi.
Lão võ sư Ngô Bông dạy học trò. Ảnh: PHẠM ĐƯƠNG
Năm 18 tuổi, Ngô Bông lang bạt vào Phú Yên rồi ngược lên vùng rừng núi của tỉnh này tìm thầy học võ. Tại đây, Ngô Bông gặp thầy Cưu Vàng. Thấy chàng trai khôi ngô, tráng kiện nhưng lại rất khiêm nhường - tiêu chí đầu tiên để các ông thầy dạy võ có thể dung nạp làm đệ tử, võ sư Cưu Vàng đã nhận Ngô Bông làm môn sinh. Vừa học võ, Ngô Bông vừa phụ giúp thầy trong công việc hằng ngày để nuôi thân.
Một chiều nọ, khi việc nhà đã vãng, hai thầy trò ngồi đàm đạo, Ngô Bông chợt thốt lên: Lưỡng kê giao thủ thủy tranh hùng/ Song túc tề phi trảo thượng xung/ Trấn ải kim thương như bạch hổ/ Thủ quan ngân kiếm tựa thanh long/Xuyên cung độc triểu tăng ư trác/ Hồi thủ đơn câu thọ tứ hung/ Thiểu, tẩu, vượt, trầm thiên sở tứ/ Nhu, cương, cường, nhược tận kỳ trung.
Nghĩa là: Hai con gà chọi nhau để tranh hùng/ Hai chân cùng bay, móng chân đâm hất lên/ Trấn biên ải, cây thương vàng như cọp trắng/ Giữ cửa quan, lưỡi kiếm bạc tựa rồng xanh/ Mũi tên độc đâm vào hầu được cất giấu như mỏ gà (mổ thóc)/ Quay đầu móc đâm vào ngực kẻ địch/ Chạy, nhảy lên, luồn, hụp xuống là thế trời cho/Mềm, cứng, mạnh, yếu tất cả đều trong bài quyền này.
Lão võ sư Cưu Vàng nghe người học trò của mình đọc bài thiệu ấy, chợt lặng đi giây lát, rồi hỏi đệ tử: “Con học ở đâu bài thiệu này?”. Ngô Bông từ tốn: “Thưa thầy, đây là bài thiệu mà những người cậu của con đã dạy cho con!”. Thầy Cưu Vàng vỗ nhẹ vào vai Ngô Bông: “Đấy là bài thiệu mà bao nhiêu năm qua ta cất công tìm kiếm. Con hãy giữ lấy nó, đừng để thất truyền”.
TRỞ THÀNH TRUYỀN NHÂN
Thực ra, thế võ Hùng kê quyền đã được nhiều thế hệ võ sư của các tỉnh Bình Định, Phú Yên và Quảng Ngãi - những hậu phương tin cậy của phong trào nông dân Tây Sơn biết đến nhưng không “đi” trọn bộ, lại không rõ xuất xứ của nó. Khi có bài thiệu ấy rồi, các võ sư bắt đầu chắp nối lại những đứt gãy của thế võ mà mình từng biết và xâu chuỗi một cách có hệ thống.
Sau 3 năm theo học thầy Cưu Vàng, Ngô Bông hồi hương.
Nhưng các cuộc chiến tranh liên miên cùng với nợ áo cơm đã không cho phép ông thực hiện trọn vẹn lời dặn của thầy là vừa phục dựng bài Hùng kê quyền vừa dạy lại cho các thế hệ học trò. Mãi đến năm 1989, nhân giải võ cổ truyền toàn quốc tổ chức tại Bình Định, võ sư Ngô Bông biểu diễn bài Hùng kê quyền khiến giới võ thuật lúc bấy giờ lấy làm ngạc nhiên và thích thú. Họ lờ mờ nhận ra một thế võ mà mình “có biết chút ít” nhưng “đi” một cách có hệ thống như Ngô Bông thì không thể.
Đến năm 1993, giải võ cổ truyền toàn quốc được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh, ban tổ chức yêu cầu các võ sư đi bài quyền nào thì phải có xuất xứ kèm theo. Bài Hùng kê quyền lại có dịp được trình diễn kèm theo bài thiệu. Cũng trong lần ấy, Liên đoàn Võ thuật V iệt Nam chính thức công nhận võ sư Ngô Bông là truyền nhân của thế võ độc đáo này.
Lão võ sư Ngô Bông trình diễn bài võ Hùng kê quyền. Ảnh: PHẠM ĐƯƠNG
TRUYỀN NHÂN ĐỜI THỨ HAI
Ngô Bông có 4 người con trai nhưng chỉ có 2 người theo nghiệp võ. Cuối cùng, “đậu” lại một người: Võ sư Ngô Lâm - người kế tục xứng đáng với sự nghiệp của cha mình trong việc bảo tồn những giá trị bất biến của Hùng kê quyền. Hàng chục huy chương vàng trong các dịp liên hoan võ cổ truyền toàn quốc do những học trò của Ngô Lâm mang về cũng từ bài Hùng kê quyền này.
Cùng với các thế võ đã song hành với nhà Tây Sơn từng chinh Nam dẹp Bắc như Tam bộ tuyết hoa song kiếm và Song phượng kiếm của nữ tướng Bùi Thị Xuân, Nghiêm thương, Tứ môn côn, Tứ môn kiếm của Quang Trung - Nguyễn Huệ, bài võ Hùng kê quyền của Nguyễn Lữ đã góp phần làm nên những chiến công lừng lẫy của nhà Tây Sơn từ hơn 200 năm trước.
Nhưng vượt lên trên tất cả những vinh quang từ môn võ, điều đọng lại trong lòng các môn sinh và những người yêu mến lão võ sư Ngô Bông là nhân cách của một người thầy dạy võ. “Học võ không chỉ là để giữ thân, rèn luyện thể lực mà còn rèn cả nhân cách trong việc ứng xử ở đời nữa. Nhà võ thực thụ là người phải biết giúp đời, cứu người”, lão võ sư đã có lần tâm sự như thế khi chúng tôi hỏi ông về chuyện “học võ”.
Đúng vậy, mãi đến những năm cuối đời, sắp sang tuổi 80 rồi mà lão võ sư vẫn rong ruổi khắp hang cùng xóm vắng để chữa bong gân, trật khớp cho bệnh nhân nghèo.
Hằng ngày, đúng 4 giờ sáng, lão võ sư ra trước cánh đồng làng và ngồi thiền, trước mặt ông là ngọn thương sáng quắc. Ông cứ ngồi như thế cho đến khi mặt trời lên, mắt nhìn thẳng vào mặt trời buổi sớm, cho đến khi mặt trời cán đỉnh thương, ông mới ra về. Tập như thế được ông gọi là “luyện nhãn pháp”. Khi đã ngộ bài tập này, người học võ có thể thôi miên cả đối phương bằng đôi mắt của mình.
Và lão võ sư không những từng thôi miên đối phương trên sàn đấu thời trai trẻ mà ông còn “thôi miên” bao nhiêu người trong làng bởi nhân cách “giúp đời” của ông. Bởi vậy, đám tang của ông (mùa hè năm 2011) có hàng nghìn người đưa tiễn như là một cách tri ân của dân làng và các môn đệ từ khắp nơi trong cả nước.
PHẠM ĐƯƠNG