Trầm tích Côn giang
Trên sườn Đông của dãy Trường Sơn trải dài nơi mái nhà Tây Nguyên, có một dòng sông miệt mài đưa nước từ đỉnh Ngok Rô - Kon Tum cao ngất, len lỏi giữa đại ngàn thâm u kỳ vĩ, vắt mình qua bao ghềnh thác thét gào, uốn lượn quanh những cánh đồng an nhiên màu mỡ, để rồi thong dong về với biển. Đó là sông Ba - dòng sông vạm vỡ nhất xứ này. Lớp phù sa dưới đáy sông như được tạo nên từ những mảng trầm tích vạn năm, triệu năm ẩn sâu trong lòng đất. Khi vươn mình qua những vùng đất có các tộc người khác nhau sinh sống, sông được gọi bằng những cái tên khác nhau. Người Bana gọi là Đak Krong; người Gia Rai gọi Krông Pa, hay Ia Pa; người Chăm cổ ở vùng hạ lưu gọi tên sông là Ea Drăng.
Sau hành trình rong ruổi trên cao nguyên Gia Lai, khi vào địa phận Bình Định, hướng về cửa biển, sông được gọi bằng tên mới - Côn giang. Cứ thế, dòng sông chảy từ nguồn về biển mang theo dòng nước những hạt phù sa đẫm nặng bao trầm tích văn hóa, lịch sử của những tộc người tụ cư bên sông.
PHÙ SA THỀM CỔ
Trong hành trình từ nguồn về biển dài hàng trăm cây số ấy, sông ưu ái chọn Gia Lai làm nơi cất giấu những bí mật về buổi sơ khai của loài người.
Năm 2014, các chuyên gia khảo cổ học thuộc Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, trong khi khai quật vùng đất thềm cổ sông Côn có tục danh là Gò Đá, ở TX An Khê (Gia Lai) đã phát hiện nhiều hiện vật đá có vết ghè đẽo của người tiền sử. Di tích sơ kỳ Đá cũ vừa được phát hiện này chính là mốc mở đầu cổ nhất mà giới khoa học biết về sự xuất hiện của con người và di tồn văn hóa của họ trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là bằng chứng khẳng định rằng: Thượng lưu sông Côn, vùng An Khê là địa bàn sinh sống của cộng đồng cư dân cổ cách đây khoảng trên dưới 80 vạn năm. Thềm cổ sông Côn ở Tây Nguyên chính là nơi kết tinh thành tựu của nhân loại ở giai đoạn cổ xưa nhất, giai đoạn người vượn đứng thẳng (Homo erectus) - là một trong những tổ tiên trực tiếp của người hiện đại trên thế giới.
Khởi nguồn từ đại ngàn Tây Nguyên rồi băng mình về biển, sông Côn sớm trở thành nơi quy tụ của các cư dân tiền sử. Đi dọc triền sông trên đất Vĩnh Thạnh, lặng nghe lời Hơ mon thoang thoảng bên bếp lửa của người Bana bỗng cảm nhận được ký ức xa mờ về một cuộc chiến kỳ vĩ cùng biển cả. Vùng đất thềm sông ở Vĩnh Thạnh ngày nay thực chất xưa kia là thềm biển. Nơi này từng xảy ra những biến động địa chất dữ dội trong thời kỳ biển tiến, biển thoái, nhất là trong kỷ địa chất Holocen cách đây hàng triệu năm. Văn hóa Bàu Cạn của cư dân An Khê đã theo sông Côn ra biển khơi để hình thành nên văn hóa Sa Huỳnh trong cái chớp mắt của vũ trụ cách nay hơn nghìn năm.
Suốt mười mấy thế kỷ trôi qua, sông Côn đã chảy qua kinh đô của nhiều vương triều, chứng kiến bao cuộc phế hưng, hưng phế… Theo các nhà nghiên cứu, Bình Định ngày nay chính là kinh đô Vijaya của vương quốc Champa cổ; phát triển rực rỡ ở giai đoạn cổ trung đại. Từ thế kỷ thứ X, vua Champa đã cho xây dựng ở đây rất nhiều tòa thành quy mô, rộng lớn như: Thành Cha, thành Đồ Bàn, thành Thị Nại, gắn liền với thương cảng Thị Nại nổi tiếng một thời. Cùng với các thành cổ là một hệ thống đền tháp dày đặc và quy mô, những kiến trúc tôn giáo mang bản sắc rất riêng của dân tộc Chăm...
Sông Côn từng là con đường giao thương quan trọng trao đổi phẩm vật trên rừng dưới biển. Người Bình Định nhận mình là dân “Nẫu” qua câu ca quen thuộc tự thủa xa xưa: “Ai về nhắn với nậu nguồn/ Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Sông Côn cũng là tuyến vận tải thủy chuyên chở các sản phẩm gốm Chăm từ những lò gốm ven sông ra thương cảng Thị Nại để xuất sang các nước Đông Nam Á, trong con đường gốm sứ trên biển lưu thông suốt nhiều thế kỷ.
Một ngày xuôi sông Côn, về với Vijaya, thả hồn theo ngọn gió nồng nàn thổi về từ quá vãng. Những bông cỏ may dưới chân thành cổ thủ thỉ cùng tôi bao chuyện. Mảnh đất này đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, dâu bể, trong cơn kiến tạo không ngừng của thế cuộc. Từ thành Phật Thệ đến vương quốc Vijaya, từ đế đô Đồ Bàn đến thành Hoàng Đế, từ phủ Quy Nhơn đến tỉnh Bình Định ngày nay, là quê hương tôi đó, với những ngọn tháp nghìn năm còn lơ lửng giữa cao xanh như những câu hỏi đầy bí ẩn.
Lễ lấy nước Thánh trên sông Côn (Lễ hội Đổ giàn An Thái). Ảnh: ĐÀO TIẾN ĐẠT
VỀ MIỀN ĐẤT VÕ
Đất Bình Định Tây Sơn hạ, xứ sở mang danh miền đất võ, quê hương của ba vị anh hùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, một buổi sớm xuân, võ sư Đinh Tuấn ngót nghét bát tuần, dắt đám môn sinh chúng tôi lội dọc mép sóng Côn giang đầy ắp phù sa, thong thả khỏa chân bên bến Trường Trầu man mác gió. Tại bến sông này, các thủ lĩnh nông dân xưa từng ngược đò lên miền Tây Sơn thượng, nhóm binh trong buổi đầu khởi nghĩa.
Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt bên bến đò năm xưa chính là khu gia trang của gia đình ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ - những người anh hùng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn xưa. Bến Trường Trầu chính là nơi nhà Tây Sơn khởi đầu tụ nghĩa, quy tập những trang anh hùng hào kiệt. Nhìn vị võ sư già tung quyền cước trên 45 mặt trống mà lớp hậu sinh không nén nổi tò mò về một thứ võ công đặc dị - niềm tự hào của người xứ võ.
Lão võ sư không quên lúc thiếu thời từng được các thầy chỉ dạy: Môn luyện võ bằng trống ngày xưa coi những chiếc trống quanh mình là đối thủ, khi xoay trở, thủ, công phải vận dụng linh hoạt tứ pháp gồm: Thân pháp, thủ pháp, bộ pháp và nhãn pháp, cùng phương châm “túc bất ly địa, thủ bất ly thân”. Khi trò luyện võ, người thầy chỉ cần lắng nghe tiếng trống là lượng được võ công của người theo học. Tiếng trống luyện võ với âm thanh dồn dập như trận công đồn quyết liệt, làm chúng tôi thêm háo hức khi bắt đầu chuyến khám phá những làng võ bên sông.
Không biết ngẫu nhiên hay sự sắp đặt của lịch sử mà những làng võ nổi tiếng nhất của Bình Định đều nằm hai bên bờ sông Côn. Bằng thuyền hay bằng đường bộ đều có thể đến được các làng võ nức tiếng một thời. Người đất võ hay nhắc câu: “Trai An Thái, gái An Vinh”, hay “Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh”… Đó là tên tuổi của những ngôi làng võ lừng danh bên sóng nước Côn giang. Những người cao tuổi ở làng vẫn chưa quên được thời huy hoàng của võ cổ truyền Bình Định bên dòng sông trước cửa nhà.
Ngày đó, ở trong làng chỗ nào có đất trống thì đó là nơi tập võ. Ban ngày ai nấy ra đồng, tối đến thắp đèn thắp đuốc, luyện tập say mê. Hai làng võ An Vinh - An Thái đua nhau không bên nào chịu thua bên nào, nhiều buổi so tài diễn ra ngay bãi cát giữa lòng sông Côn mùa nước cạn.
Đất này cũng là nơi sinh ra nhiều trang liệt nữ giỏi giang võ nghệ. Nổi tiếng nhất là nữ tướng Bùi Thị Xuân cùng nhóm Ngũ Phụng thư dưới triều Tây Sơn, giỏi cả quyền, côn, kiếm. Đến thời cận đại, làng An Vinh có nàng đả nữ nổi tiếng Tám Cảng, một người phụ nữ võ nghệ tài ba, xinh đẹp nết na, giỏi nghề trồng dâu nuôi tằm. Cô khiến nhiều chàng trai ngỡ ngàng bởi những đường quyền cước vừa mềm mại, vừa mạnh nhanh như vũ bão trong các hội võ Đổ Giàn bên sông. Câu ca: “Ai về Bình Định mà coi/ Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền”, chính là bắt đầu từ câu chuyện về những người con gái đất này.
CUỐI SÔNG ĐẦU BIỂN
Cuối dòng sông Côn, khi những con nước bắt đầu chuyển mặn để hòa mình vào biển, sông bỗng dùng dằng nửa đi nửa ở. Thật khó để hình dung nơi đây từng là thương cảng quốc tế Nước Mặn tấp nập ghe tàu của xứ Đàng Trong mấy trăm năm trước, nay chỉ còn là một chốn quê yên ả, với đồng lúa xanh đang thì ngậm sữa. Vùng đất ven sông này xưa kia là biển. Những biến động địa chất đã làm biển lùi xa mấy dặm từ hai thế kỷ trước.
Tại bến cảng xưa này, bốn thế kỷ trước, trong vòng tay cưu mang của quan trấn thủ Hoài Nhơn Trần Đức Hòa, những nhà truyền giáo phương Tây đã nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt để truyền bá giáo lý đạo Ki tô cho dân chúng. Một ngôi nhà thờ Chúa và cũng là trường học đầu tiên đã được dựng lên ở nơi này. Những tảng đá ong nơi nền nhà thờ cổ có lẽ vẫn còn lưu lại trong từng mạch xếp những âm thanh tập đánh vần tiếng Việt đầu tiên theo cách của những nhà truyền giáo.
Một ngày về vạn Gò Bồi, nơi sông Côn bắt đầu hòa mình vào biển. Bến sông này từng chứng kiến mối tình ấm áp của một ông đồ xứ Nghệ và cô hàng nước mắm xứ Đàng Trong. Đứa con của vạn Gò Bồi được sinh ra từ mối tình đẹp ấy chính là nhà thơ Xuân Diệu - “Ông hoàng của thơ tình”, trong phong trào thơ mới - thơ bằng chữ Quốc ngữ những năm nửa đầu thế kỷ XX. Nhà của Xuân Diệu ở ngay bên mép nước, cách nơi ra đời những ký tự đầu tiên của chữ Quốc ngữ không xa, chỉ mấy vòng xe đạp. Hẳn ngày ấy, khi chia tay với bồ chữ Hán - Nôm của cha - một ông đồ Nghệ để vào trường Quốc ngữ, Xuân Diệu có lẽ chưa biết rằng: Quê hương mình chính là nơi ra đời của thứ chữ tân tiến, dễ học và tiện dụng ấy. Chữ Quốc ngữ, thứ văn tự mới mẻ, giúp biểu đạt ngôn ngữ tiếng Việt một cách dễ dàng ấy đã góp phần đưa Xuân Diệu trở thành cây đại thụ của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Thủa ấy, cùng với Xuân Diệu, nhóm thơ Bình Định gồm: Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến Lan… đã trở thành những ngôi sao sáng trên văn đàn Quốc ngữ khi tuổi đời còn rất trẻ.
Buổi chiều, thong thả dạo bước bên sông, bất chợt gặp chàng họa sỹ đang thả hồn trong nhát cọ. Người nghệ sỹ không nhớ nổi mình đã vẽ bao nhiêu bức tranh về dòng sông này, bởi mỗi lần ngắm sông anh lại phát hiện ra bao điều lạ lẫm, mới mẻ nơi con sông quen thuộc. Nơi ấy chứa đựng ký ức của trăm năm, nghìn năm và cả mới hôm qua của miền đất này. Dạo bước hoàng hôn, chúng tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng lau lách bên sông rì rào kể chuyện.
PHƯƠNG LAN