Phấn đấu thông qua chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao năm 2025
Dự án tuyến Đường sắt Tốc độ cao Bắc-Nam là dự án có tầm chiến lược, tạo động lực đột phá để phát triển KT-XH, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước.
Một tuyến đường sắt tốc độ cao tại châu Âu. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Bộ Giao thông Vận tải phấn đấu trình cấp có thẩm quyền xem xét, thông qua chủ trương đầu tư Dự án Đường sắt Tốc độ cao Bắc-Nam trong năm 2025 theo đúng Kết luận số 49-KL/TW của Bộ Chính trị về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo quy hoạch, tuyến Đường sắt Tốc độ cao Bắc-Nam từ ga Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm với quy mô đường đôi, khổ 1.435mm, chiều dài khoảng 1.545km, lộ trình nghiên cứu đầu tư đến năm 2030 (Hà Nội-Vinh, Nha Trang-TP Hồ Chí Minh), sau năm 2030 (Vinh-Nha Trang).
Khẳng định Dự án tuyến Đường sắt Tốc độ cao Bắc-Nam là dự án có tầm chiến lược, tạo động lực đột phá để phát triển KT-XH, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước, tuy nhiên, lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải cho rằng đây là dự án có quy mô rất lớn, ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến phát triển KT-XH của đất nước, có tiêu chuẩn kỹ thuật-công nghệ phức tạp.
Mặt khác, dự án này chưa có tiền lệ, lần đầu tiên được triển khai tại Việt Nam nên cần được nghiên cứu thận trọng, kỹ lưỡng để lựa chọn phương thức và nguồn vốn đầu tư, yếu tố kỹ thuật, mô hình khai thác hợp lý trên cơ sở phù hợp với xu thế phát triển của quốc tế, điều kiện thực tế của Việt Nam, bảo đảm tầm nhìn chiến lược, dài hạn.
Theo văn bản 5676/VPCP-CN ngày 26.7.2023, về chủ trương đầu tư Đường sắt Tốc độ cao trên trục Bắc-Nam, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải trước ngày 5.8 tới, hoàn thành việc đề xuất thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án chủ trương đầu tư Đường sắt Tốc độ cao trên trục Bắc-Nam (Đề án) và các dự án đường sắt tốc độ cao khác kết nối liên vùng và quốc tế trong hệ thống đường sắt quốc gia (Ban Chỉ đạo) theo đúng quy định.
Thời gian vừa qua, Hội đồng thẩm định Nhà nước đã có ý kiến về hồ sơ báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án. Bên cạnh đó, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 49-KL/TW ngày 28.2.2023 về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, theo đó yêu cầu nghiên cứu, phân tích, đánh giá, kết hợp tham khảo kinh nghiệm quốc tế để lựa chọn phương án đầu tư xây dựng hiện đại, có tầm nhìn dài hạn, phát huy được các lợi thế, tiềm năng của đất nước, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Hiện nay, Bộ Giao thông Vận tải đã chỉ đạo các đơn vị liên quan tiếp thu ý kiến của Hội đồng thẩm định Nhà nước đồng thời bộ cũng tổ chức đoàn công tác đi học hỏi kinh nghiệm tại một số quốc gia có hệ thống đường sắt tốc độ cao phát triển như châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản để cập nhật, bổ sung, hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án.
Để có đầy đủ cơ sở khoa học, khách quan, minh bạch, Bộ Giao thông Vận tải dự kiến sẽ huy động một số chuyên gia quốc tế có kinh nghiệm, phối hợp với tư vấn trong nước để nghiên cứu, hoàn thiện làm cơ sở trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định.
Về tiến độ, Bộ Giao thông Vận tải phấn đấu trình cấp có thẩm quyền xem xét, thông qua chủ trương đầu tư trong năm 2025 theo đúng Kết luận số 49-KL/TW của Bộ Chính trị.
Trước đó, tại cuộc họp với các đơn vị trực thuộc và tư vấn dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam vào tháng Năm vừa qua, theo Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Danh Huy, Dự án Đường sắt Tốc độ cao Bắc-Nam là dự án có quy mô lớn, công nghệ-kỹ thuật phức tạp, cần nhiều nguồn lực lớn để đầu tư, là động lực quan trọng để tạo đột phá phát triển KT-XH cả nước và được Bộ Chính trị yêu cầu nghiên cứu cẩn trọng, toàn diện, kỹ lưỡng.
Vì vậy, Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy yêu cầu các đơn vị trên lưu ý tập trung vào hai phương án là làm một tuyến đường sắt mới chỉ chở khách và tuyến đường sắt mới vừa chở khách vừa chở hàng. Trong đó, kịch bản đường sắt mới chỉ chở khách, bổ sung đường sắt hiện hữu cải tạo, nâng cấp, điện khí hóa; kịch bản thứ hai là xây dựng mới đường sắt trên trục Bắc-Nam theo tiêu chuẩn đường đôi, khổ 1.435mm, điện khí hóa để vận tải hành khách và hàng hóa làm cơ sở để so sánh, lựa chọn.
Theo Việt Hùng (Vietnam+)