Về quê!
Truyện ngắn của LÊ CÔNG PHƯỢNG
Mình ơi! Đưa tôi về đi. Anh em đồng chí đã về hết cả rồi. Một mình ở lại đây tôi buồn quá!
Bà Tuệ giật mình tỉnh dậy giữa đêm khuya. Dạo gần đây, bà hay nghe thấy tiếng thì thầm của chồng trong giấc ngủ. Căn nhà tối om. Tiếng dế ngoài vườn vẫn ran không ngớt. Từng cơn gió nhẹ khua mấy tàu cau đầu hồi cọ vào nhau xào xạc. Bà Tuệ vấn lại mớ tóc bạc, với tay bật đèn. Bà lật đật đi ra gian giữa, nơi đặt bàn thờ ông. Đốt nén hương cắm lên, bà lầm rầm khấn:
- Ông ơi! Mấy mươi năm rồi, ông đi mà chẳng hẹn ngày về. Tôi cùng con cháu đã đi tìm ông không biết bao nhiêu lần mà chẳng thấy. Trường Sơn mênh mông, mấy mươi năm, biết bao đổi thay. Chỗ nào là chỗ cây gỗ hương ven đầm sen đánh dấu nơi ông nằm xuống? Lần này may mắn đã tìm được người tự tay chôn cất ông đi cùng đấy; cháu con đầy đủ trong đoàn người đi tìm mộ liệt sĩ, ai cũng muốn đưa ông về cho gần nhà cho có anh em có bầu bạn. Ông có sống khôn thác thiêng thì hiển hiện điểm chỉ nơi ông nằm xuống. Về quê sum họp nha ông.
Không gian tịch mịch. Đáp lại tiếng tỉ tê của bà chỉ là những tiếng dế kêu, tiếng lá ngoài vườn xào xạc. Bà đưa tay áo run run chấm giọt nước mắt đang rỉ ra từ kẽ mắt kèm nhèm, già nua. Năm đó, ông hăng hái lên đường vào Nam chiến đấu. Bà bịn rịn tay ôm con nhỏ, tay dắt con lớn tiễn ông đi. Ông cười hẹn bà ngày về sẽ cùng bà chăm lo cho các con, sẽ không để bà một mình vất vả nữa.
“Vậy mà ông đi luôn một lèo mấy chục năm rồi. Đất nước đã độc lập lâu rồi. Đồng chí của ông, người còn người mất cũng về cả rồi mà ông thì chưa. Thằng cháu đích tôn của ông đợt này cũng đòi đi theo vào trong đó tìm ông. Ông nhớ phù hộ cho con cháu chuyến đi này được gặp như ý nguyện…”, bà Tuệ cứ ngồi trên chiếc ghế ngay cạnh ban thờ mà thủ thỉ một mình đến gần sáng.
***
Bà Tuệ đã chuẩn bị sẵn những thứ bánh trái ngày xưa ông Minh thích, cùng rất nhiều vàng hương. Bà gói ghém cẩn thận. Dặn dò con cháu lời cầu nguyện, khấn vái để làm sao ông biết mà phù hộ. Bà gọi con cháu đến đứng trước ban thờ, đốt nắm hương, chia cho mỗi người một cây, nói đến trình diện trước ông. Bà cẩn thận đọc đầy đủ tên tuổi của từng người để ông nhận mặt cháu con khi gặp lại.
Tranh của họa sĩ NGUYỄN MINH TÂM
Đoàn đi xe một ngày một đêm tới nơi. Sau khi nghỉ ngơi ăn sáng, mọi người bắt tay ngay vào việc tìm kiếm. Giở lại bản đồ đánh dấu nơi ông hy sinh trong trận đánh năm đó. Lạ lắm. Mọi thứ ngày một thay đổi nhiều quá, nhà cửa mọc lên, không còn hoang vu như xưa nữa. Từ chỗ dừng xe, đi vào nơi được đánh dấu trên bản đồ, thực sự theo cảm tính, cầu may mắn nhiều hơn là tính chính xác. Men theo đường mòn với hai bên là cây rừng rậm rạp, được nửa buổi, mọi người gần như mất phương hướng. Dấu chấm đỏ trên bản đồ cách nơi họ đang đứng xa hay gần? Đã gần trưa, nắng lên xiên chênh chếch qua những tán cây rọi loang lổ xuống mặt đất. Mọi người dừng lại ngồi nghỉ.
- Ông ơi, bố ơi, chúng ta đặt mâm cúng ở đây đi. Thằng cháu đích tôn của ông Minh vừa lau mồ hôi đang chảy cay xè trên mắt vừa nói.
- Ừ, đặt ở đây cũng được. Ông ấy có linh thiêng sẽ giúp chúng ta. - Người thương binh già vịn cánh tay duy nhất vào một thân cây to đứng lên, mắt hướng nhìn ra xung quanh. Rừng năm đó không xanh, không rậm như bây giờ. Rừng năm đó khét lẹt mùi khói, mùi bom đạn và cả mùi thịt da cháy xém như xóa nhòa luôn cả mặt đầm cả sen và lục bình đang vào cữ nở rộ.
- Ông ơi, mâm cúng đã chuẩn bị xong rồi. Con mời ông ạ!
Người thương binh già lặng lẽ gật đầu. Ông đốt bó hương, khói tỏa nghi ngút khắp khoảng không, rồi tan nhanh quyện vào trong gió. Mắt rưng rưng nhìn mơ màng vào làn khói mỏng mảnh, ông nghẹn ngào:
- Ngày đó, nếu cậu không nhào tới xô mình xuống đầm sen thì người nằm đây có lẽ là mình chứ không phải là cậu. Minh ơi! Cậu đã nằm lại nơi đây bao năm rồi. Đã đến lúc về lại quê hương rồi. Hôm nay mình và các con, cháu của cậu lại vào đây đón cậu. Mà cây gỗ hương nơi mình chôn cậu ngày nào giờ tìm hoài không thấy. Cậu hãy phù hộ cho mình tìm được cậu nhé.
Cắm những cây hương vòng quanh mâm cúng, người đồng đội năm nào run run rót chén rượu, tay mân mê từng món bánh gai, bánh giầy...
- Toàn những món cậu thích ngày xưa. Chính tay vợ cậu làm đấy. Bà ấy cũng đã già yếu rồi, chỉ mong đón được cậu về để đoàn tụ. Về đi cậu!
Mọi người đứng sau ông, chắp tay yên lặng. Chờ những nén nhang cháy hết, tất cả sẽ bắt tay vào cuộc tìm kiếm. Thằng cháu hơn mười tuổi thích thú với cảnh núi đồi chập chùng, với vùng đầm nhỏ ken dày sen, súng và lục bình, với cánh rừng đầy những tiếng chim hót, tiếng cây rừng xào xạc. Bước chân nó tung tăng theo những chú chim lạ. Đi được một đoạn thì mấy chú chim bay mất, đôi mắt nó lại mê mẩn bởi mấy nhành lan tím đang bung nở trên nhánh cây phía trước. Nó tiến lại gần và tìm cách trèo lên hái. Chới với. Bỗng: “Á, bố ơi!”. Bịch! Thằng bé trượt tay ngã xuống, lăn tròn vài vòng trên đất, rồi dừng lại khi vướng phải một gốc cây ven đầm. Nghe tiếng thằng bé kêu, ai cũng vội rẽ lối băng đám cỏ Mỹ ken dày. May mà không sao, lá rừng đã đỡ nó. Nhưng tất cả cùng chết lặng trước vùng đầm ken dày sen, súng và lục bình. Không ai còn nghĩ đến chuyện nghỉ mệt nữa.
Ngồi nghe tiếng gió vi vu luồn lách trong từng tán lá, xao xác những lá sen già, người thương binh già chợt ngờ ngợ, hình như ông đang nhớ ra điều gì đó. Ông chầm chậm đảo mắt tìm kiếm. Đằng xa kia hình như có một cây gỗ hương thì phải? Ông lật đật tiến lại gần. Nếu đúng cây gỗ hương ngày ấy thì giờ cũng đã to bằng chừng này, đầm có thể bồi lấp mà không còn mênh mông nữa nhưng dáng vóc cây gỗ hương thì nhác nom giống quá. Ông lom khom đi quanh quanh, chăm chú vào gốc cây lớn ngay trước mặt. Trong lòng bỗng dâng lên một cảm giác gì đó rất lạ. Lấy tay vạch lớp lá mỏng bên gốc cây, ông chạm phải một vật gì đó bằng kim loại ghim chặt vào đó. Người thương binh già chợt khuỵu xuống:
- Phải! Đây rồi! Đúng là đây rồi! Các cháu ơi, đúng chỗ này rồi!
Mọi người vội xúm lại!
- Mảnh bom này, vết lõm này không thể nhầm được! Năm đó, mảnh bom đã cày từ chiếc hố kia, kéo một đường qua đây xén mất một phần gốc cây phía trước và găm sâu vào gốc cây hương này. Ta bị thương chỗ này. Ngày ấy… Nào, đưa đây, đưa chiếc cuốc cho ta.
Ông cầm chiếc cuốc bằng cánh tay còn lại, vội vàng xới một chỗ bên gốc cây. Mới chừng gang tay, lưỡi cuốc gặp đá nẩy văng lên. Ông buông cuốc, chỉ tay về bên kia gốc cây:
- Bên kia, ta cùng anh em đã đào huyệt chôn ông ấy bên kia gốc cây bởi bên này bị vướng lớp đá này đây. Trời ơi! Ngày ấy ta đã nói coi như đây là cách đánh dấu chỗ bạn ta nằm xuống.
Người lính già lạc giọng: Vậy là mình đã tìm được cậu rồi Minh ơi!
Đám con cháu và những người theo tìm mộ liệt sĩ cứ đứng lặng ngậm ngùi nghe người đồng chí hỉ hả với bạn mình về trận chiến ác liệt, về những mất mát hy sinh. Khi đào lên, cầm chiếc bình đông bị móp một bên càng làm người thương binh già khẳng định chắc chắn rằng đó là ông Minh. Chiếc bình cũng được mọi người cẩn thận đặt vào trong chiếc tiểu sành, bên cạnh bộ hài cốt tìm được. Một cơn gió vút qua mặt đầm nhè nhẹ lùa xào xạc những chiếc lá sen già, hương sen nhè nhẹ gợn từ sớm đến giờ không dưng bùng lên ngào ngạt.
Buổi sáng cuối tháng Bảy, bà Tuệ ra nghĩa trang từ lúc trời còn mờ sương. Sau khi đốt hương khắp lượt những dãy mộ được sắp ngay hàng thẳng lối như duyệt binh, bà về lại mộ chồng. Nén hương nghi ngút. Bà bày ra ít bánh gai, bánh giầy, mấy trái cây hái trong vườn. Bà thủ thỉ:
- Bánh tự tay tôi làm, ngày xưa ông thích nhất, giờ không biết ông còn thích nữa không? Cây trái trong vườn nhà cả đấy ông ạ! Ông về đây rồi, vui đoàn tụ bạn bè đồng chí, tôi cũng yên tâm.
Bà Tuệ đưa bàn tay xương xương, nhăn nheo những đốm đồi mồi mân mê từng dòng chữ trên bia mộ. Bà lẩm nhẩm: Liệt sỹ Nguyễn Văn Minh - Sinh năm … - Quê quán - Hy sinh ngày … tháng … năm... Nắng đã lên. Những tia nắng chiếu chênh chếch xuyên qua hàng phi lao quanh khu nghĩa trang. Bà Tuệ lặng lẽ đứng dậy nghĩ thầm: “Ông nghỉ đi, tôi về. Thi thoảng tôi lại ra trò chuyện cùng ông”. Ngoài cổng đoàn học sinh ăn mặc chỉnh tề, sắp thành hai hàng ngay ngắn đang chuẩn bị vào nghĩa trang thắp hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ.