Vùng cao
Truyện ngắn của NGUYỄN THỊ BÍCH NHÀN
Sập tối thì xe đến nơi. Người đến đón tôi đưa về trường là một anh, dáng người đậm thấp, thêm bộ ria mép kiểu Ả Rập nên trông có vẻ… khác người. Anh vồn vã: Cô giáo Bích phải không? Tôi chưa đáp thì anh coi như mình đã tìm đúng người, đoạn tự giới thiệu luôn, anh tên là Triệu, cùng tổ ngoại ngữ với chị Liên - cùng dãy phòng với em đấy. Thôi, đưa va li đây cho anh, ngồi cho chắc nhé. Chả hiểu sao anh nói sao tôi nghe vậy, làm theo đúng như thế….
***
Con nhỏ mới nhận phòng. Chưa kịp thăm thú dãy nhà cho biết nơi mình ở ra làm sao, mới kịp bày biện bàn ghế cho có chỗ ngồi thì anh Triệu xuất hiện, hỏi luôn: Em có thấy cây me to ngay cái tường bể sau bếp không? Tôi chưng hửng. Mặt đuỗn ra như cái ống bơm, ngơ ngác hơn là tò mò. Cũng bởi cái tính chết nhát, lại mới về nơi đèo heo hút gió nên đang muốn thích nghi một cách thận trọng, từ từ. Nhưng có vẻ như anh muốn kể hơn là muốn để tôi tự khám phá.
Chuyện hay vầy, không nghe không đáng mặt… anh hào! Khích tướng phát ghê. Chị Liên thấy anh nhiệt tình một cách long trọng thì cười cười rồi lườm một phát, kiểu tui biết tỏng anh rồi - Ông dẹp cái mớ chuyện ma chuyện quỷ của ông đi nghen ông kia.
Thấy bị nắm thóp, rất nhanh, anh bẻ cua:
- Em dạy Văn phải khác, đừng có nghèo nàn thực tế đời sống như bà í. Anh vừa trịnh trọng khuyên vừa liếc qua chị Liên, vừa ra dấu - Bà im giùm coi! Đó là một đêm trăng, trăng dát vàng hết khu đồi này, anh thấy nhớ người yêu đang dạy ở phố nên ngồi uống rượu, tự đệm guitar, tự chế nhạc hát, anh hát “Cao nguyên sầu độc ẩm… nhớ mắt phố, nhớ mắt em, long lanh, long lanh, những giọt nước mắt… long lanh…”. Nhạc anh sáng tác đấy, nói rồi cười he hé… Đố em biết đã xảy ra chuyện gì khi tiếng hát “quỷ khốc thần sầu” của anh cất lên? Không biết chứ gì? Đúng rồi! Đời nào em đoán được chuyện anh đang nghêu ngao hát thì nghe “cụp”, là âm thanh của cái ghế rớt xuống đất. Anh vứt đàn chạy ra sau, run rẩy khi thấy người đàn ông lơ lửng như trái me khổng lồ. Khổ, đứa con gái ốm yếu lại làm mẹ đơn thân, nuôi thêm ông bố bệnh đau nữa thì bất nhẫn quá. Nếu sống không ý nghĩa thì người ta sẽ chọn cái chết cao cả. Chuyện như vầy, cô giáo dạy Văn không biết thấy có phí đời không?
Tôi chưa kịp nói năng chi thì anh đã tiếp tục câu chuyện, lâu lâu anh vẫn gặp ông cụ ấy đứng ở sau bếp, cười với anh. Tới đây thì chị Liên phản ứng như muốn anh mau hạ màn:
- Ông có thôi đi không hả! Người ta con gái mới lớn, lần đầu xa nhà, lại leo tuốt luốt lên cái nơi thâm sơn cùng cốc này, anh lại đem mớ chuyện ma của anh ra dọa. Có ác cũng vừa vừa chứ… Còn con kia nữa, can cớ gì mà cứ há hốc mồm lên nghe ổng dọa chứ. Thôi, ông đi về coi. Để tui còn nói chuyện riêng với nó… Về coi…
Anh Triệu chỉ cười hề hề, vừa dợm chân bước vừa nháy mắt “tạm biệt tiểu cô nương”. Mấy phút sau đã nghe tiếng hát nghêu ngao từ phòng anh vọng sang.
Tôi có nhiệm vụ nấu cơm chiều cho cả phòng. Nơi tôi dạy chưa có điện. Chiều mùa đông, ra sau hóc bếp cứ gọi tối om om. Cơ khổ, tôi không sợ trời không sợ đất nhưng rất sợ… ma. Tôi hình dung cảnh mình bưng xoong canh và nhìn thấy “trái me khổng lồ lủng lẳng” đang cười thì chắc là … bỏng toàn thân.
Mà đã hết đâu, anh Triệu còn kể nhiều chuyện khác, còn kinh khủng gấp đôi, hoang đường gấp bội cơ. Như chuyện gần nội trú có con suối nhỏ, một hôm có người phụ nữ ôm đồ ra suối giặt, con cá sấu mập béo ở đâu nấp sẵn dưới suối nhào lên bờ kéo xuống. Buổi chiều ông chồng làm rẫy về ra suối tìm vợ, chỉ thấy đôi dép trên bờ và nghe văng vẳng “người đàn bà ấy là của tao…”. Thấy tôi tái mặt, anh kiên quyết, chốn này là xứ… liêu trai đấy tiểu cô nương.
Sau này mới biết anh đồng nghiệp “có râu Ả Rập” có biệt tài vừa kể chuyện vừa bịa. Tôi hỏi sao anh lại thích kể chuyện ma? Anh bảo cũng là một hình thức giải trí thôi. Nơi núi non heo hắt buồn quá, anh em nội trú chẳng có trò giải trí, anh ngẫu hứng muốn kể chuyện “liêu trai” để thú vị hóa hành trình của mình. Vì biết nó vô hại. Ai rồi chẳng biết mình đùa... Biết mình bịa nhưng vẫn thích nghe kể. Biết đang nghe anh bịa nhưng sờ sợ, hãi hãi như cô thì vẫn… Anh lại cười he he. Kiểu cười của anh thật không thể nào giận được.
Dạy ban ngày, đêm còn phải đi phổ cập ở làng xa. Đường gồ ghề, đêm đen đặc. Học sinh đến trường thì mười đứa hết tám lôi thôi lếch thếch. Học trò mà to cao như ông ầm. Vô lớp mà nhoi khủng khiếp, tự do đi lên đi xuống, luôn miệng “em yêu cô!”. Khổ gớm! Dạy ngày dạy đêm, mùa hè cũng phải bám trường bám lớp. Tôi bắt đầu thấy hối hận về ước mơ tình nguyện làm cô giáo vùng cao của mình. Tôi hụt hẫng, ngỡ ngàng đến thất vọng khi đối mặt cùng thực tế. Nhiều khi khổ, buồn, muốn… trốn về xuôi quách! Trốn cho xa, thật xa, khỏi ngôi trường nghèo nàn ở vùng kinh tế mới heo hút, không hợp với tôi - cô nàng ưa náo nhiệt.
Tranh của họa sĩ TRƯƠNG ĐÌNH DUNG
Rồi một buổi sáng, vừa mở cửa ra đã thấy cậu học trò ngồi thu lu tự lúc nào trước hiên nhà. Cậu bảo đến sớm nhưng không dám gọi sợ phá giấc ngủ cô. Tay cậu ôm bó rau muống to. Cậu rụt rè bảo: Rau vườn nhà, tươi lắm, em đem cho cô nấu canh!
Có hôm tôi bệnh, lại học trò khác mang tới nội trú trái cam nhà, nhỏ xíu nhưng thơm lừng, ngọt ngay. Mùa mía, những cây mía xanh được các em đem ra suối chà sạch và đem tới tặng cô. Chưa hết, những ngày lễ, quà các em tặng là những bó bông cỏ được sắp và bó thật đẹp, có em kết thành vòng, tự tay đeo vào cổ cho cô.
Đó quả thật là những khoảnh khắc vô cùng hạnh phúc. Nó giúp tôi vơi nỗi buồn khó khăn, thiếu thốn. Chỉ mấy tháng thôi nhưng những khoảnh khắc hạnh phúc ấy đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Nó khiến tôi ngày càng gần gũi, yêu thương các em hơn và không băn khoăn nữa, thanh xuân của đời mình đã rẽ sang nẻo khác, màu sắc, hương vị cũng khác. Nơi tôi dạy đúng là chưa có điện, phương tiện để tôi nối mình với thế giới văn minh là một chiếc radio nhỏ nhưng ở đây có rất nhiều điều dưới phố không hề có, hoặc rất ít gặp. Chính những điều như vậy đã thắp tôi sáng lên. Và một điều tự tôi thấy thú vị chính là không biết tự lúc nào tôi có thể nhắm mắt mà vẫn có thể vào bếp nhóm lửa ngon lành, thậm chí chẳng còn sợ ma nữa.
Chính cái lúc tư tưởng thay đổi hoàn toàn thì bất ngờ tôi bị tai nạn giao thông, mười phần chết chín. Một vệt dầu loang trên đường làm chiếc xe bị trượt ngã, văng tôi, xe và chiếc mũ bảo hiểm về ba hướng. Lại là học trò cứu tôi. Chính các em đã chặn xe tải chở mía lại, “hốt” cô giáo đi cấp cứu.
Khi tỉnh dậy trên giường bệnh, khi vừa há miệng đưa lưỡi rà thì đụng ngay những sợi chỉ trong miệng. Tri giác vừa lờ mờ trở lại thì tôi kinh hoàng khi chạm vào khoảnh trống vốn là mấy chiếc răng cửa... Có chuyện gì thế này? Ôi, hàng răng đều tăm tắp, những chiếc răng trắng muốt của tôi? Sao tôi không chết luôn lúc đó cho rồi. Tôi ngất đi. Và những ngày sau đó đầu óc tôi luôn bị bó chặt với suy nghĩ giờ mình sống làm sao, với khuôn mặt bị biến dạng. Trán bị móp vào, xung quanh sẹo nổi thành những sợi gân lớn. Một vết sẹo to dưới cằm trái và lỗ thủng phía trên môi để lại một ụ thịt ú nần. Tay chân cứng đơ đơ, không nhấc lên được. Mọi sinh hoạt đều nhờ mẹ. Tôi của ngày xưa đâu rồi. Tôi sôi nổi ưa náo nhiệt, tôi hừng hực kiêu kỳ của ngày xưa đâu rồi ? Không còn ngày xưa. Không phải tôi. Tôi thành phế nhân rồi. Thân xác đau đớn, tinh thần rã rời.
Buồn khủng khiếp, buồn vô hạn, bao nhiêu dự định đã không thực hiện được. Bỏ dở kỳ thi Tin học, Ngoại ngữ, sau đại học. Tôi nằm rười rượi như con mèo ốm. Nằm một cục thế này tới chừng nào đây? Rồi bỗng nhớ chuyện mình làm cô giáo. Tôi muốn cầm phấn, tôi thèm được lên lớp. Có lẽ bệnh viện gần trường học, nên tiếng trống trường cứ vọng lại, cứ mỗi lần như thế, ngực tôi nhói lên, y như ai đó cầm dùi trống gõ mạnh vào ngực mình vậy. Thảm đến độ mỗi lần nghe là nước ở hai mắt ứ lên. Mẹ gắt:
- Bệnh đau không lo chữa mà khóc hoài khóc miết. Con mắt đang bị bệnh, khóc riết là nó mù luôn thì ăn mày!
Bi quan, tôi tắt tiếng, chỉ còn vẻ mặt ủ dột đừ câm và đôi mắt luôn ướt nhèm. Nằm trên giường bệnh, nếu có một dây thường xuân bên ngoài cửa sổ phòng bệnh, chắc tôi cũng làm như nhân vật trong truyện Chiếc lá cuối cùng của O. Henry, sẽ đếm những chiếc lá rụng và sẽ rụng theo chiếc lá cuối cùng...
Xuất viện rồi sang bên điều dưỡng rồi phục hồi chức năng hơn hai tháng vẫn không có biểu hiện thuyên giảm gì nhiều. Tôi vẫn cứ ngơ ngơ, đơ đơ. Nhưng không hiểu sao, trong đầu tôi chỉ có mỗi hình ảnh bảng đen, phấn trắng và những gương mặt nhem nhuốc đáng yêu. Ruột gan cồn cào quay quắt nhớ.
- Con muốn về nhà đi dạy?
- Dạy dỗ là chuyện cả đời… Ráng hết bệnh rồi về dạy. Bộ dạng vầy làm sao mà dạy được ai chứ. Càng muốn đi dạy thì con càng phải tích cực điều trị, cứ nước mắt ngắn nước mắt dài thì làm sao…
Vậy là ráng. Tôi bắt đầu tăng khối lượng những bài tập, tích cực hợp tác và nhiệt tình với những liệu trình điều trị. Rồi cũng đến lúc được xuất viện.
Xe vừa dừng lại trước cửa nhà, tôi còn đang chậm rãi đổi thế, đưa chân chuẩn bị xuống xe thì từ trong nhà, các em học sinh ùa ra, có em chực nhào lên xe, có em mêu mếu gọi cô ơi, tụi em nhớ cô quá… Tôi đưa tay ra, cầm tay các em, bật khóc sung sướng như vừa được uống một liều thuốc thần. Đứng bên cổng là anh Triệu với kiểu cười hề hề cố hữu. “Chào cô giáo Bích… Cô có thấy cây me đằng kia không…”. Tôi đang nước mắt giàn giụa mà suýt nữa lại sặc lên vì cười!