Thị trường vũ khí toàn cầu: Nhu cầu cao, doanh thu thấp
Ngày 4.12, Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) công bố báo cáo cho thấy, mặc dù các cuộc khủng hoảng vũ trang và chiến sự diễn ra liên tiếp trên thế giới trong năm 2022, nhưng doanh số vũ khí của 100 nhà thầu quân sự lớn nhất thế giới lại sụt giảm.
Theo báo cáo thường niên của SIPRI, doanh số từ hoạt động mua bán vũ khí và các dịch vụ quân sự của các tập đoàn quốc phòng này trong năm 2022 đạt gần 600 tỷ USD, nhưng lại giảm 3,5% so với năm 2021. “Mặc dù có nhiều đơn hàng mới, trong đó nhiều công ty đạt tỷ lệ kỷ lục, nhưng doanh thu lại giảm, nhất là các nhà thầu quân sự Mỹ”, Xiao Liang, đồng tác giả của báo cáo, nói.
Mỹ: Doanh thu giảm do các vấn đề sản xuất
Nhiều công ty quốc phòng ở Mỹ và châu Âu không thể nâng cao năng lực sản xuất, do thiếu nhân công, chi phí tăng, dịch Covid-19 và sự gián đoạn chuỗi cung cấp. Hầu hết số vũ khí cung cấp cho Ukraine được lấy từ kho dự trữ của Mỹ và châu Âu, nên không tạo ra nhiều doanh thu cho ngành công nghiệp này.
Mặt khác, các nhà thầu quân sự lớn thường tập trung sản xuất khí tài hiện đại, như máy bay, tàu chiến và tên lửa, trong khi đó, trang thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong cuộc chiến ở Ukraine không cần quá đắt tiền, mà chỉ là xe bọc thép và súng đạn.
Mặc dù vẫn giữ vị trí số 1, nhưng thống kê cho thấy, tổng doanh thu của 42 tập đoàn Mỹ trong danh sách này là 302 tỷ USD (giảm 7,9%), chiếm 51% doanh thu của top 100. Tuy nhiên, SIPRI dự báo con số này nhiều khả năng tăng mạnh trong những năm tới nhờ các hợp đồng mới.
Triển lãm hàng không vũ trụ và hàng không quốc tế tại TP Chu Hải (Trung Quốc) năm 2022. Ảnh: AP
Châu Âu: Tăng trưởng khiêm tốn
Trong năm 2022, doanh thu từ bán vũ khí của 26 công ty quốc phòng hàng đầu châu Âu đạt 121 tỷ USD (tăng 0,9%). Theo nghiên cứu của SIPRI, cuộc chiến ở Ukraine đã tạo ra nhu cầu cho các loại vật liệu dùng để sản xuất xe bọc thép và đạn dược.
Nhờ đó, nhiều nhà sản xuất các mặt hàng này ở châu Âu có thể tăng doanh thu, như tập đoàn quốc phòng Ba Lan PGZ, với doanh thu tăng 14%. Doanh thu của 4 công ty quốc phòng Đức trong danh sách này là 9,1 tỷ USD, tăng 1,1% so với năm 2021. Tập đoàn duy nhất của Đức có doanh thu sụt giảm là ThyssenKrupp, với 1,9 tỷ USD (giảm 16%).
Đối với ngành công nghiệp quốc phòng Nga, do thiếu dữ liệu nên SIPRI không thể đưa ra đánh giá toàn diện về sự tăng trưởng của các tập đoàn Nga. Trong top 100 chỉ có 2 công ty của Nga, gồm Rostec (vị trí 10) và Tập đoàn đóng tàu United (vị trí 36), với tổng doanh thu là 20,8 tỷ USD.
Châu Á: Trung Quốc tăng trưởng năm thứ 4 liên tiếp
Các tập đoàn quốc phòng ở châu Á, châu Đại Dương và Trung Đông ghi nhận mức doanh thu tăng trưởng đáng kể, do các khu vực này thường xuyên phải đối diện với tình hình an ninh phức tạp, hay đang trong tình trạng chiến tranh, như Israel và Hàn Quốc. Vì vậy, các công ty này phải có “năng lực sản xuất liên tục”, có thể tăng tốc năng suất khi nhu cầu đột ngột tăng cao.
Hơn nữa, theo SIPRI, một số tập đoàn ở Trung Quốc, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ được hưởng lợi từ chương trình hiện đại hóa lâu dài của chính phủ. “Đa số nhu cầu vũ khí cũng xuất phát từ trong nước, nhằm trang bị cho chính quân đội nước đó. Điều này giúp các nước ở đây tránh được tác động khi chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn”, ông Xiao Liang lý giải. Đây là năm thứ 2 liên tiếp doanh số vũ khí của 22 công ty quốc phòng hàng đầu ở châu Á và châu Đại Dương tăng cao, với 134 tỷ USD (tăng 3,1%). Trong số 8 nhà thầu quân sự Trung Quốc trong top 100, có 3 công ty nằm trong top 10. Doanh thu vũ khí năm 2022 của 8 công ty này lên đến 108 tỷ USD, chiếm 18% tổng doanh thu vũ khí toàn cầu. Đây là năm thứ 4 liên tiếp tổng doanh thu của 8 “ông lớn” quốc phòng Trung Quốc tăng trưởng.
Theo các nhà nghiên cứu của SIPRI, các chương trình hiện đại hóa quân sự của Bắc Kinh nhằm “tự chủ hơn” trong sản xuất vũ khí là động lực cho ngành công nghiệp quốc phòng nước này phát triển.
LÊ QUẢNG (Theo SCMP, DW)