Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7.5.1954 - 7.5.2024):
Một Bạch Ðằng, một Chi Lăng hay một Ðống Ða của thế kỷ XX
Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn có nhận định rất súc tích mang tầm kinh điển về chiến thắng Ðiện Biên Phủ: “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Ðằng, một Chi Lăng hay một Ðống Ða trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.
Tạc vào lịch sử dân tộc
Đại thắng Bạch Đằng năm 938 gắn liền với tên tuổi của Ngô Quyền, chấm dứt hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên độc lập tự chủ cho nước nhà. Trận kỳ chiến lần thứ hai tại Bạch Đằng giang diễn ra năm 981, hơn 4 vạn quân xâm lăng bị đánh đuổi ra khỏi bờ cõi, Đại Tống chấp nhận xuống nước và chính thức thừa nhận Lê Đại Hành là vua của Đại Cồ Việt. Nhưng chiến công hiển hách của trận Bạch Đằng năm 1288 của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn mới xứng đáng được Tổng Bí thư Lê Duẩn nhắc đến khi nhận định về chiến thắng Điện Biên Phủ.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao cờ Quyết chiến quyết thắng cho các đơn vị lập công trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu
Sở dĩ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn ẩn dụ chiến thắng Điện Biên Phủ như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỷ XX vì giữa chúng có rất nhiều điểm tương đồng như: Ít địch nhiều, yếu thắng mạnh, chính nghĩa thắng hung tàn, thiên tài kiệt xuất của người chỉ huy kết hợp sức mạnh toàn dân, thế trận lòng dân…
Nhắc đến chiến thắng Điện Biên Phủ sẽ gần như có “từ khóa” mặc nhiên về thiên tài Võ Nguyên Giáp. Nếu Điện Biên Phủ là phiên bản Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, thì đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng sánh như một Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi hay Nguyễn Huệ của thế kỷ XX. Thành quả của thắng lợi luôn là kết tinh sức mạnh tập thể, nhưng dấu ấn cá nhân vẫn rất đậm nét. Trong đó, nguyên nhân trực tiếp có tính chất then chốt là sự chỉ đạo chiến dịch với quyết định lịch sử chuyển từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, thể hiện bản lĩnh kiên định, trí tuệ sắc sảo, tư duy quân sự sáng suốt và ý chí quyết chiến, quyết thắng của “anh Văn”.
So sánh chiến thắng Điện Biên Phủ với Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa không chỉ về ý nghĩa lịch sử, giá trị độc lập, tự do mang lại cho dân tộc mà còn bởi quy mô, hào khí và việc vận dụng tài tình chiến lược quân sự lấy dân làm gốc, sau này gọi là chiến tranh nhân dân. Từ tướng sĩ của Trần Hưng Đạo đến nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi, từ nghĩa quân Tây Sơn của Quang Trung đến bộ đội Cụ Hồ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến sau này… đều từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh.
Đi vào lịch sử thế giới
Một nước Việt Nam non trẻ, vừa thoát khỏi ách thuộc địa nửa phong kiến, binh lực, quân trang vũ khí đều không thể sánh bì, nhưng đã đánh thắng đội quân xâm lược hùng hậu của một cường quốc phương Tây có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh và hiện đại hơn gấp nhiều lần. Chiến sự diễn ra, quân ta càng đánh càng mạnh lên, ngược lại kẻ thù càng đánh càng sa vào kiệt quệ và rệu rã.
17 giờ 30 phút ngày 7.5.1954, tướng De Castries cùng toàn bộ Ban tham mưu của địch ra đầu hàng, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ - pháo đài “bất khả xâm phạm”, niềm kiêu hãnh của quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương chính thức thúc thủ, kế hoạch Navarre đi tới phá sản hoàn toàn, cũng gần như đặt dấu chấm hết cho cuộc phiêu lưu và sự ngoan cố, hiếu chiến của thực dân Pháp cùng can thiệp Mỹ trên bàn Hội nghị, buộc Chính phủ Pháp cùng các bên tham dự phải ngồi vào bàn nghị sự, ký Hiệp định Genève. Dưới mật danh chiến dịch Trần Đình, lần đầu tiên một nước thuộc địa ở châu Á tiêu diệt và bắt sống trên 1,6 vạn lính lê dương của một nước đế quốc phương Tây trong một trận quyết chiến chiến lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là tiếng chuông báo tử cho chủ nghĩa thực dân và là ngọn cờ cổ vũ động viên các dân tộc thuộc địa trên thế giới đứng lên đấu tranh mạnh mẽ để giành lại quyền độc lập, tự do; lan tỏa cảm hứng cho phong trào cộng sản quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Do vậy, năm 1964, kỷ niệm 10 năm sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”.
Đúc kết những phân tích, nhận định của các học giả, chính khách và thực tiễn sinh động từ chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần chứng minh một chân lý của thời đại: Các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có một đảng Marxist chân chính lãnh đạo với đường lối đúng đắn, sáng tạo, phát huy được ý chí kiên cường và sức mạnh toàn dân tộc cộng với sự đồng tình ủng hộ của thế giới, nhất định đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Các lực lượng hiếu chiến dù có tàn bạo đến đâu thì cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ vì hòa bình, hữu nghị và phát triển, vì một trật tự thế giới mới công bằng, dân chủ văn minh nhất định thắng lợi.
NGUYỄN VĂN HIỀN