Đào tạo kĩ sư ở Pháp - rút ra gì cho đại học Việt Nam?
LTS. Là người con Bình Định, TS. Bùi Quốc Bảo, giảng viên ngành Xây dựng, Trường Polytech Annecy-Chambéry thuộc Đại học Savoie, Pháp, vừa gửi về cho Báo Bình Định bài viết ghi lại những suy nghĩ của ông qua thực tế đào tạo kĩ sư ở Pháp và những gì có thể rút ra được trong đào tạo kĩ sư tại Việt Nam. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Tuần rồi, tôi dự hội đồng bảo vệ thực tập tốt nghiệp của bốn sinh viên tại bốn doanh nghiệp khác nhau, toàn những tập đoàn lớn (Vinci, Bouygues...). Các doanh nghiệp này đều rất hài lòng về sinh viên của trường. Đây đã là năm thứ ba tôi tham gia dự bảo vệ tốt nghiệp tại các công ty. Những năm trước các sinh viên cũng đều hoàn thành rất tốt thực tập, riêng năm nay, với tôi, điều này có ý nghĩa đặc biệt hơn vì tôi đã dạy các sinh viên này nhiều môn từ khi họ vào trường (sau đại cương) cho đến khi ra trường. Chứng kiến sự trưởng thành của một thế hệ học trò mà mình đã góp một phần công sức đào tạo nên, cảm giác thật đặc biệt.
Từng có dịp chứng kiến và tham gia trợ giảng tại một trường "lớn" (grande école, gọi là "trường tuyển" thì chính xác hơn) ở Lyon là Ecole Nationale des Travaux Publics de l'Etat (ENTPE), tôi biết rằng phần đông đầu vào sinh viên Trường Polytech Annecy-Chambéry - nơi tôi đang giảng dạy - không thể sánh bằng với trường "thứ dữ" như ENTPE (sinh viên các « trường tuyển» nếu thi tuyển theo đường chính thống thì đúng là nằm ở một đẳng cấp khác!). Thế nhưng, ở đầu ra, sinh viên các trường kĩ sư tuy không thuộc diện "trường tuyển" vẫn thể hiện năng lực làm việc rất tốt.
Bởi vậy nên tôi tự hỏi, nhờ đâu có được thành công này. Có nhiều sự khác biệt với giáo dục tại các trường ở Việt Nam, ngay từ cách tổ chức các môn thí nghiệm, thực hành… Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ giới hạn vào những điểm nổi bật nhất mà theo tôi là có tác dụng lớn vào việc làm nên thành công này và việc áp dụng vào thực tế đại học ở Việt Nam không phải là bất khả.
Trước hết, về thực tập, đa phần các trường kĩ sư của Pháp vẫn còn giữ ba đợt thực tập: công nhân (năm thứ ba), kĩ thuật viên (năm thứ tư) và kỹ sư (năm thứ năm). Hiện ở Việt Nam, nhiều trường bỏ bớt một số đợt thực tập (như Trường Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh - nơi tôi từng theo học). Hơn nữa, điều đáng tiếc là thực tập ở Việt Nam chưa được phát huy hết tác dụng. Đa phần thực tập sinh không được trả lương, công ty không mấy tin tưởng vào năng lực của sinh viên nên không dám giao phụ trách công việc gì quan trọng mà đa phần chỉ là "quan sát" và "học hỏi".
Vấn đề này cần được giải quyết ở nhiều cấp độ chứ không chỉ ở trường đại học hay tại doanh nghiệp. Tại Pháp, các công ty nhận sinh viên thực tập nói riêng hoặc tham gia vào công tác giáo dục, nghiên cứu nói chung thì sẽ nhận được ưu đãi của Nhà nước về thuế. Vậy nên, các công ty mới nhiệt tình trong việc nhận sinh viên thực tập, trả lương. Và một khi đã trả lương thì họ sẽ được giao những công việc thật sự.
Nhớ lại hồi trước, tôi tốt nghiệp loại giỏi ở Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh nhưng công việc đầu tiên tôi được giao khi đã chính thức đi làm cũng giống như công việc các sinh viên ở Pháp đi thực tập năm cuối. Vậy nên, các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn than phiền với báo chí là nhận sinh viên mới tốt nghiệp ra trường vào làm, họ phải đào tạo lại hoặc đào tạo thêm.
Về giảng viên thỉnh giảng, ở Pháp, 5 năm một lần, Hội đồng Quốc gia (CTI) sẽ đến thẩm định công tác đào tạo tại các trường kĩ sư. Nếu đạt yêu cầu, họ mới gia hạn cho trường được tiếp tục đào tạo và cấp bằng kĩ sư trong 5 năm tới. Một trong những yêu cầu của Hội đồng này là trong tổng số giờ dạy của trường, phải có bao nhiêu phần trăm (khoảng 5-10% tôi không nhớ chính xác) được giảng dạy bởi các giảng viên thỉnh giảng. Đa phần giảng viên thỉnh giảng là những người đang làm việc tại các doanh nghiệp nên họ có thể truyền đạt đến sinh viên những kiến thức thực tế. Trường của tôi chẳng hạn, đa phần giảng viên ngoài trường được mời dạy những môn ở năm cuối, vốn rất cần kinh nghiệm thực tế. Các giảng viên thỉnh giảng này sẽ có thêm thu nhập, nhưng đây không phải là lí do chính. Cái chính là họ sẽ tạo được tên tuổi cho chính họ và cho công ty. Một phần khác là họ có thể “ngắm nghía” và chọn những sinh viên khá để tuyển dụng vào công ty.
Về giảng viên cơ hữu, đa phần giảng dạy 50% và nghiên cứu 50%. Hiện tại, khoảng 60% tổng giảng viên ở Pháp là giảng viên - nghiên cứu viên (maitre de conferences hay professeur des universités). Trừ giảng viên các môn cơ sở (như tiếng Anh, đại cương...), đa phần giảng viên của các môn chuyên ngành đều là giảng viên - nghiên cứu viên. Cụ thể, một năm, tổng thời gian làm việc là khoảng 1.600 giờ thì 800 giờ dành cho nghiên cứu, 800 giờ dành cho giảng dạy. Trong 800 giờ giảng dạy, có 200 giờ đứng lớp thật sự, còn 600 giờ dành cho việc chuẩn bị bài, chấm bài, họp hành, công tác chung của khoa, của trường... Vậy nên, giảng viên sẽ có thời gian để nâng cao kiến thức, cập nhật kiến thức mới.
Ở đây, xin lạm bàn chút xíu về vấn đề đồng lương phải đảm bảo để giảng viên chuyên tâm công tác, không phải chạy "sô" để dạy thêm hoặc làm thêm bên ngoài. Mọi người có thể nói, "làm thêm bên ngoài sẽ giúp có kiến thức thực tiễn". Đúng! Nhưng có hai cách. Thứ nhất, họ có thể tiếp xúc thực tiễn qua các đề tài nghiên cứu (50% thời gian làm việc), bởi phần lớn các đề tài nghiên cứu hiện nay đều bắt buộc có sự tham gia của các doanh nghiệp. Thứ hai, họ tham gia hướng dẫn luận văn với các donh nghiệp (tôi sẽ nói rõ điều này trong một phần khác). Theo tôi, ở trường đại học, nhiệm vụ của giảng viên cơ hữu là cung cấp kiến thức nền tảng (chuyên sâu) cho sinh viên, kiến thức thực tế hoàn toàn có thể được cung cấp thông qua các giảng viên thỉnh giảng và các đợt thực tập. Tôi hoàn toàn ủng hộ việc giảng viên chính hợp tác, làm thêm với các công ty bên ngoài nhưng với điều kiện phải vẫn đảm bảo thời gian trau dồi, tiếp cận những kiến thức, phương pháp mới. Việc giảng dạy - nghiên cứu vẫn phải là công việc chính, là đam mê chứ không phải đứng tên ở trường đại học để có các « mác » rồi sau đó đi làm thêm bên ngoài là chính.
Về tỉ lệ sinh viên trên giảng viên, ở Pháp hiện vẫn tồn tại hai hệ thống. Những "trường lớn", trường tuyển thì hầu như không có (hoặc rất ít) khái niệm "học ở giảng đường" vì số lượng sinh viên trong mỗi lớp rất ít (khoảng 24 sinh viên/lớp). Vậy nên, giảng viên vừa dạy lý thuyết và sửa bài tập trong một lớp nhỏ. Những "trường chọn" này thường là những trường có danh tiếng và được đầu tư lớn. Còn những trường ít danh tiếng hơn thì theo hệ thống kiểu "university", chia làm hai phần, dạy lí thuyết trên giảng đường, dạy sửa bài tập thì đưa về nhóm nhỏ (24 sinh viên/nhóm). Ở Việt Nam hiện nay, việc theo đuổi mô hình «trường tuyển» là khó phù hợp vì đòi hỏi ngân sách lớn, nhưng việc áp dụng mô hình «university» là có thể.
TS. BÙI QUỐC BẢO