Về Tết
Truyện ngắn của PHẠM VĂN HOANH
Những ngày cuối năm, thành phố như khoác lên mình chiếc áo xuân rực rỡ chuẩn bị đón Tết. Những con đường rộn ràng ngập tràn muôn sắc hoa. Ngoài phố người người hối hả mua sắm. Trong nhà ai ai cũng trang hoàng bàn thờ, chuẩn bị đón một cái Tết sum vầy. Tiếng cười nói, tiếng nhạc xuân rộn rã vang lên khắp nơi. Nhưng giữa dòng người vội vã và âm thanh náo nhiệt ấy, lòng tôi lại trống trải một cách kỳ lạ. Tôi ngồi lặng lẽ bên góc bàn, nhìn màn hình máy tính đầy những con số và công việc chưa hoàn thành mà nghĩ: Ở quê, chắc cha mẹ đã tất bật cả ngày với dưa với bánh, dọn dẹp bàn thờ tổ tiên, bày biện những món Tết truyền thống, xếp đặt lại mấy chậu kiểng. Tôi lại hình dung cảnh sân nhà vàng rực hoa mai, nơi cây mai mẹ cha vẫn thường ngồi uống trà mỗi sớm mai, ánh mắt thì cứ nhìn ra cổng, mong chờ một đứa con làm ăn xa trở về…
Điện thoại đột nhiên rung lên, làm tôi giật mình. Của mẹ. Tôi nhấc máy, giọng mẹ dịu dàng nhưng xen lẫn chút trách móc:
- Tết này con có về không? Làm ăn gì mà tết nhất không thấy về quê?
Tôi ấp a ấp úng một lát mới trả lời:
- Dạ, con đang tính.
Mẹ tôi thở dài:
- Tình gì mà tính miết. Bao cái tết rồi không về. Lo làm giàu mà quên tổ tiên ông bà hả con? Tính lẹ đi…
Nói xong mẹ tôi cúp máy.
Tôi gọi lại không thấy mẹ nhấc máy.
Tranh của họa sĩ TRƯƠNG ĐÌNH DUNG
Tính mẹ tôi là vậy. Chắc là mẹ đang hờn. Nên tôi không gọi nữa. Tôi biết tết nào con cháu không về đông đủ là mẹ buồn lắm. Mẹ không buồn sao được khi bữa cơm cúng tất niên mà thiếu con, thiếu cháu. Năm nào bữa cơm cúng tất niên con cháu đông đủ là mẹ vui không gì bằng, mặc dù mẹ vất vả thở không ra hơi. Vậy mà tôi đã vắng mặt trong bữa cơm tất niên nhiều năm rồi. Nhưng vì cuộc sống phải mưu sinh biết làm sao…
Tôi đến bàn bên cạnh rót ly nước trà. Hương trà Bắc ngan ngát khiến tôi nhớ đủ điều. Tôi nhớ nhất là cứ sau ngày đưa ông Táo về trời, cha tôi đem gốc tre khô ra bửa. Để có được đống gốc tre to đùng, cha tôi phải khom lưng đánh gốc, đào rễ trong những ngày tháng nắng. Bửa xong cha tôi lựa những miếng nhỏ chất riêng để nấu ăn trong ba ngày tết, những miếng to khó bửa thì dùng vào việc nấu bánh tét. Mẹ tôi thì lo quét dọn vườn tược, giặt giũ chăn mền, rửa chén bát, lo đi chợ mua sắm… Còn chị em tôi thì cùng nhau quét mạng nhện, lau chùi cửa nẻo, rửa bàn ghế, rửa bình ly, chén bát… Xong xuôi, chúng tôi chạy ra chợ mua giấy màu về cắt những bông hoa đủ màu sắc sặc sỡ, dán vào những cành cây chè tàu, rồi cắm vào độc bình. Thời buổi ấy làng tôi có phong trào làm hoa giấy. Hoa giấy rất quan trọng trong ngày Tết. Nó vừa thể hiện sự tươi mới của nhà cửa, vừa thể hiện sự khéo léo và tài nghệ của con người. Năm nào độc bình hoa giấy của chị em tôi cũng đều được khách khen.
Năm nào cũng vậy, sáng 30 tết, cả nhà tôi đều quây quần bên cái nong để gói bánh tét. Mẹ và các chị tôi chọn và sắp lá chuối. Tôi lấy khăn sạch lau từng lá chuối rồi chuyển sang chiếc nong cho cha. Cha tôi bao giờ cũng là người gói bánh. Bởi cha gói không những rất nhanh mà còn rất khéo. Cây bánh tét cha gói thẳng đều đẹp mắt, không bị thấm nước vào bên trong. Đặc biệt là nhưn bánh lúc nào cũng nằm chính giữa. Cha vừa kể chuyện vừa gói bánh. Hai tay cha tôi gói nhanh thoăn thoắt nhưng động tác rất dứt khoát. Chẳng mấy chốc thúng gạo nếp đã được gói xong. Số gạo đã gần hết chỉ còn khoảng yếu nửa cây bánh tét, nhưng nhưn bánh còn nhiều. Cha lấy lá chuối, âu yếm nhìn chị em tôi nói:
- Giờ cha sẽ gói riêng cho các con mỗi đứa một cái.
Chị em tôi vỗ tay vui mừng. Nhìn chị em tôi, nét mặt cha mẹ tôi toát lên vẻ mãn nguyện và hạnh phúc. Cha gói xong rồi giao cho mẹ bỏ vào cái nồi to bắc lên ba hòn gạch để nấu. Nấu bánh tét kiểu ngày xưa hao củi lắm. Không có củi nào nấu bánh tét lợi như củi gốc tre. Gốc tre cháy từ từ nhưng rất nóng. Khói tỏa ra từ gốc tre trắng và thơm. Đun gốc tre khô vào bếp, rồi cha mẹ tôi giao cho chị em tôi canh chừng. Tôi hỏi mẹ:
- Sao lại phải canh chừng hả mẹ?
Mẹ cười: Canh chứ không kẻ trộm vớt bánh.
Tôi lại nói: Ở quê mình làm gì có ai ăn trộm đâu mà sợ hả mẹ?
- Đừng có chủ quan nghe con! Ở mình không có chứ các nơi khác người ta tới.
Nói xong mẹ lại kể câu chuyện ngày xửa ngày xưa. Câu chuyện chỉ lưu truyền trong nhân dân chứ chưa có trong sách vở. Câu chuyện thì dài nhưng đại khái là có một gia đình nọ giàu có, đêm 30 tết cúng tất niên nhậu nhẹt say sưa, không canh chừng bị kẻ trộm vào lấy hết, nào bánh tét, nào thịt heo, nào dưa món… Khi tỉnh dậy mới hay. Sau đó mới vội vàng bắc nước làm heo, gói bánh, làm mức… cho kịp tết. Rồi cho người canh giữ cẩn thận. Kể xong mẹ hỏi: Con thấy không? Phải đề phòng. Dù sao phòng bệnh vẫn hơn chữa bệnh. Đừng để mất bò mới lo làm chuồng.
Chị em tôi dạ và hứa với mẹ sẽ canh kỹ lưỡng. Mẹ tôi nhắc thêm: Khi nào nồi bánh không sôi ùng ục nữa thì con đổ thêm nước vào, chứ cạn nước cháy nồi nghe con. Để mẹ còn lên nhà trên phụ cha kê mấy chậu hoa.
Ngồi canh chừng nồi bánh tét, chị em tôi không biết làm gì ngoài việc lùi củ lang ăn. Thấy chị em tôi ăn củ lang lùi mẹ tôi bảo:
- Tết nhất, ăn nhiều củ lang làm chi cho đầy bụng, để mai ăn cơm trắng cá tươi cho ngon.
Nghe thế chị tôi lại hỏi: Sao không ghế củ ăn cho lợi mà nấu cơm trắng hả mẹ?
Mẹ tôi cười nói: “Đói ngày tết hết ngày mùa mà con…” Nghe mẹ nói mà tôi thấy thương cho cha mẹ quá. Phải chi lúc đó tôi trở thành thanh niên để giúp được chút ít gì cho cha mẹ.
Tranh của họa sĩ HÀ HUY MƯỜI
Đêm 30, cả nhà tôi đều thức. Chị em tôi thì canh nồi bánh tét, cha mẹ thì lo trang hoàng bàn thờ và sửa soạn lễ vật để cúng giao thừa. Mẹ cha sửa soạn vừa xong thì bánh cũng vừa chín. Mẹ tôi vớt bánh đem lên nhà trên sắp lên bàn thờ cùng với mâm ngũ quả. Tiếng chuông đồng hồ báo hiệu giờ khắc thiêng liêng đã đến, cha tôi thắp nhang khấn vái ông bà. Những sợi khói ngoằn ngoèo bay lên tỏa ra cả gian nhà một mùi hương nồng ấm. Những sợi khói mỏng manh tưởng sẽ bay theo mây gió biến mất, nhưng lạ thay nó lại bền chặt níu giữ hồn tôi với quê hương đến tận bây giờ. Khấn vái xong cha tôi rót rượu, pha trà. Tôi nhớ nhất cách pha trà của cha. Hai tay cha cung kính bưng bình trà đưa lên cao ngang mặt rót xuống nghe ro ro. Một âm thanh nghe rất thiêng liêng. Một cử chỉ rất thành kính. Mỗi lần pha trà cha tôi thường nói: “Ngày xưa ông nội con pha trà như thế này.” Cách pha trà, rót rượu của cha tôi vừa thể hiện tấm lòng thành kính với ông bà, vừa mang chút hoài niệm về người quá cố.
***
Sáng mồng một Tết, cha tôi mở rộng cửa để đón lộc, đón khách đến xông nhà. Sau khi đón khách xông nhà xong, cha tôi dẫn chị em tôi về nhà thờ họ nội, họ ngoại để viếng tiên linh ông bà, tục gọi là mừng tuổi. Còn mẹ tôi thì ở nhà lo nấu nướng để cha tôi về cúng cơm bữa.
Học hết trung học phổ thông, lên thành phố học đại học tự nhiên tôi sợ tới tết. Tôi nhớ cứ mỗi lần đến tết cha mẹ tôi nói riêng, người dân quê tôi nói chung cực khổ lắm. Họ phải lo cả tháng trời. Nào là lo chọn nếp, chọn đậu, chọn đường… để làm món bánh nổ, bánh in, bánh thuẫn, và các loại mứt… Lo vỗ béo heo, gà, vịt… Mới đầu tháng chạp là phải lo rang nếp nổ, lượm vỏ trấu, mượn khuôn để đóng bánh, đóng xong cắt ra thành lát rồi sấy. Còn phải lo xay bột, lấy sương cho bột dịu rồi in thành bánh…
Tốt nghiệp đại học tôi ở lại thành phố làm việc. Thời gian này tôi thường gởi tiền về biếu cha mẹ. Sau đó tôi lập gia đình. Lúc đầu tôi còn gởi tiền biếu cha mẹ, dần dần về sau thì thưa dần thưa dần rồi thôi. Sau khi có hai đứa con tôi không còn ở nhà trọ nữa mà mua nhà. Nhà cửa cũng không to lắm, tít sâu trong hẻm nhưng thoải mái. Từ ngày hai đứa con vào đại học, tôi phải tranh thủ làm thêm nên không có thời gian về quê. Những ngày tết, ngày giỗ tôi tranh thủ về một vài ngày là phải vô ngay. Để tiện liên lạc, tôi mua biếu cha mẹ mỗi người một cái điện thoại di động để khi nhớ con, nhớ cháu thì gọi thấy mặt nhau, sẽ đỡ nhớ. Nhưng mẹ tôi vẫn nhớ, vẫn muốn giỗ chạp tết nhất phải về. Nhưng vợ chồng tôi bốn năm năm nay buôn bán đắt đỏ, việc nhiều nên quên tết luôn. Năm nay lại thế…
Sáng 30 tết, điện thoại reo mà không nghe, mẹ gọi năm lần bảy lượt mà không hay biết, khách hàng nói mới hay. Mở di động ra nhìn trên Zalo thấy mẹ cha đang gói bánh tét, thấy chị Hai và các cháu về đông đủ mắt tôi cay xè. Tự nhiên tôi thấy những làn khói trắng ngoằn ngoèo tỏa ra từ mái rạ năm nào, tan loãng trong không gian thành những làn sương khói mờ mờ, ảo ảo. Và tai tôi nghe văng vẳng lời của cha “Làn sương khói cuối năm tuy mỏng manh nhưng nó là dấu hiệu của sự no đủ. Chiều cuối năm nhà nào không có khói bếp bay lên là buồn lắm”. Tiếp theo hình ảnh bà cụ gần nhà tôi ngày xưa lại ùa về. Bà ấy già rồi, con cái đi làm ăn xa, tết không về. Một mình bà đứng tựa cửa nhìn ra.
Nghĩ đến đó tôi ứa nước mắt. Tôi nhìn mẹ nói:
- Mẹ ơi! Tý nữa con ra sân bay đấy.
Tiếng reo như vỡ tung gian nhà:
- Tranh thủ chớ kẻo trễ, tàu bay nó không chờ nghe con! Cẩn thận vẫn hơn nghe con…
- Dạ. Con đi bây giờ.
Tích tắc. Tích tắc…
Chuông đồng hồ điểm từng tiếng một. Chỉ còn hơn mười lăm tiếng đồng hồ nữa là đến năm mới rồi. Thành phố đã nhộn nhịp hẳn lên. Nhà nhà chuẩn bị đón giao thừa. Tôi hối vợ gói quà, xếp hành lý vào va li, rồi mở Zalo đặt vé máy bay. May quá còn mấy vé có lẽ giá đắt quá nên đọng lại. Tôi vội khóa chặt cửa rồi cùng vợ con ra sân bay.