Râu tuồng và nghệ thuật sử dụng
Tuồng (hát Bội) là một loại hình sân khấu độc đáo của dân tộc Việt Nam và mang tính tổng hợp. Tất cả các loại đạo cụ, trang phục, cảnh trí đến cử chỉ, điệu bộ của diễn viên trên sân khấu rất được chú trọng. Sự kết hợp tổng thể các yếu tố này mang lại cảm xúc thẩm mỹ đặc biệt cho khán giả, giúp họ cảm nhận được sự tinh tế của nghệ thuật tuồng.
Râu tuồng (một thuật ngữ chỉ chung các kiểu râu dùng trong nghệ thuật hóa trang tuồng truyền thống) cũng là một đạo cụ dùng để biểu diễn và góp phần tăng thêm tính thẩm mỹ cho diễn viên khi lên sân khấu. Râu tuồng rất đa dạng về chủng loại: Râu 3 chòm (5 chòm), râu liên tu, râu rìa, râu xoắn (quắn), râu cắt, râu chuột…với 3 màu chủ yếu là trắng (bạc), đen, hung (đỏ). Những nhân vật tuổi từ trung niên trở lên thường mang râu, không kể nhân vật chính diện hay phản diện.
Nhưng nhân vật nào mang loại râu gì thì phụ thuộc vào tính cách của nhân vật đó. Nhân vật chính diện nói chung (người trí dũng, đôn hậu, trầm tĩnh, quý phái…) mang râu đen dài, già thì mang râu bạc dài. Võ tướng già mang râu liên tu bạc. Râu liên tu đen dùng cho kẻ gian nịnh, đeo râu liên tu đỏ là tướng phản phúc, yêu đạo, phù thủy. Râu liên tu bạc là lão tướng anh hùng. Râu ba chòm (5 chòm) đẹp, đen dài dùng cho một số võ tướng có cốt cách văn thần như Đổng Kim Lân ( tuồng Sơn Hậu - hồi 3), Quan Công (tuồng Cổ Thành), râu ba chòm bạc dài cũng dùng cho những văn thần già như Lý Khắc Minh (tuồng Ngọn lửa Hồng Sơn), Đào Công (tuồng Đào Phi Phụng). Ngoài ra, râu ba chòm đen, dài cũng là một trong những đặc điểm để nhận dạng về kép vua như Triệu Khuôn Dẫn (tuồng Đào Tam Xuân loạn trào). Râu ba chòm ngắn (bạc, đen) dùng cho lão tiều, lão chài, người dân thường. Râu đen xoắn bao kín hàm (râu xồm) dùng cho những nhân vật nóng nảy, dữ dằn như Trương Phi, Châu Thương (tuồng Cổ Thành). Người có tính khôi hài, dễ dãi, hay đùa cợt thì đeo râu cắt (màu đen hoặc đỏ). Râu đen, ngắn dùng cho vai kép núi. Mang râu rìa đen là những tên loạn thần như Triệu Văn Hoán (tuồng Ngọn lửa Hồng Sơn), Tạ Thiên Lăng (tuồng Sơn Hậu). Râu rìa bạc trái lại dùng cho những trung thần khí khái như Tạ Ngọc Lân (tuồng Ngọn lửa Hồng Sơn), thái sư Văn Trọng (tuồng Phong thần). Râu rìa đỏ chỉ thấy dùng cho mỗi nhân vật Ngô Tôn Quyền (tuồng Giang tả cầu hôn). Râu chuột ngúc ngoắc khi kể chuyện dùng cho kẻ liến thoắng, người bộp chộp, nịnh bợ như Lôi Nhược (tuồng Sơn Hậu). Các vai hề giễu, những tay học trò dốt đi thi, công tử ve gái thì dùng râu dê, râu vẽ. Râu cáo dùng cho kẻ ti tiện, quỷ quyệt.
Cũng như các điệu bộ khác trong tuồng như múa tay, di chuyển chân, múa mắt, cưỡi ngựa…vuốt râu phải theo những trình thức nhất định và mang vẻ tượng trưng. Quan văn trung: vuốt râu nhẹ nhàng kéo phớt qua bên mặt hay bên trái (nếu tay mặt cầm quạt). Quan võ trung: cầm ngọn râu phía dưới rồi hất qua một bên. Nếu vai nịnh thì hai tay ôm bộ râu, vuốt xuôi xuống, cười hơi nịnh bợ. Mỗi loại râu trong tuồng đều có cách vuốt và hàm chứa một ý nghĩa riêng. Nếu nhân vật vuốt nửa chừng rồi dừng lại là ngụ ý đang thắc mắc, suy nghĩ. Còn vuốt luôn là thể hiện nhân vật đã tìm ra biện pháp giải quyết sự việc.
Các kiểu râu trong tuồng có giá trị như một ngôn ngữ, một ký hiệu. Chỉ cần nhìn vào cách vẽ mặt, màu sắc của các bộ phận trên khuôn mặt và cách sử dụng râu của diễn viên, người xem có thể biết ngay tính cách và vị trí xã hội của nhân vật đó: Người trung mặt đỏ, đôi tròng bạc/Đứa nịnh râu đen, mấy sợi còi.
Cũng như một số loại đạo cụ khác (hia, búa), râu tuồng chủ yếu dùng cho nhân vật nam giới và mang tính khoa trương, cách điệu so với thực tế cuộc sống (râu tuồng thường dài và nhiều hơn). Đây là một trong những “phương tiện” biểu diễn của diễn viên và góp phần làm đẹp hình ảnh của nhân vật trong mắt khán giả.
NGUYỄN THÚY HƯỜNG