Chiếc áo tơi lá
Chiếc áo đi mưa có khung sườn làm bằng những thanh tre cật vót nhẵn; thân chằm nhiều lớp lá nón, nức chỉ dây gai; cổ (mồng) ghép nhiều lớp lá tốt, bện lạt mây kiểu hình rết, trong có dây mềm dùng để rút - buộc khi mang, gọi là áo tơi lá. Áo tơi lá không tay, không đố, tà. Lúc không rút dây, áo là tấm mê lá vuông vức rộng chừng một mét hai vuông. Khi đi mưa, áo chỉ che được vai, lưng, mông và hai bên mạn sườn người mang. Áo dãi gió dầm mưa lâu năm, đến tuổi già đứt chỉ, sụn mê, thân lá tả tơi thành ra áo tơi. Áo rách cổ, thủng vai do xoay trở, khuân vác lâu ngày đến mức gãy, đứt vẫn chưa chằm sửa hoặc làm lại chiếc áo mới nên đành chịu tiếng “rớt mồng tơi”.
Áo tơi lá thường nằm vách đất mái hiên cùng với nong nia, thúng rổ. Có nhà, áo treo tòng teng giữa gian trống, xung quanh nhện hóng giăng đầy. Áo mới chằm, dựng đứng trông giống cái bố đựng lúa. Áo cũ, xù xì như con sâu bao. Áo tuy đơn sơ nhưng cơ động nhanh nhẹn, mang - cởi gọn trơn. Áo xoay được nhiều chiều nên chắn được nhiều hướng gió mưa. Ngày mưa, lên chòi rẫy, thân áo là chiếc chiếu trải sạp rất êm lưng. Ngày rét, ra đồng, dựng áo xuống bờ, úp mê nón cời lên trên, chui vào trong, thổi lửa mặt trước nướng sắn mì, quả thật không nơi nào ấm bằng!
Một đời tơi lá gian nan, cơ cực. Mùa nắng, áo áp bụng vách hiên, nghểnh cổ, chong tai nghe thời gian gõ nhịp. Hễ có tiếng sấm xoẹt - đùng, mưa giông lộp bộp, áo liền vươn vai đứng dậy, đội nón ra đồng khơi mương dẫn nước. Có lúc áo liêu xiêu, dò bước đến trường đón cô cậu học trò trong những cơn mưa bất chợt. Áo còn đội sấm, đội chớp, chùng chình lội mưa, đi theo con nước chặn đơm cá đẻ. Áo đi, áo về lẹ làng, tất bật. Mùa mưa, áo phơi mình trong giá rét, hết nhổ mạ, cày cấy ruộng cao đến ngụp lặn ruộng sâu be bờ, tát nước; hết tất tả ngược xuôi lên rừng xuống chợ lại bươn bả lên rẫy vào hóc phát, trỉa, trồng, dặm. Đêm, áo theo người đi họp đội, có đêm còn theo kẻng ra đồng đắp đê ngăn lũ… quần quật suốt một đời.
Tơi lá chịu thương chịu khó vô cùng! Dù gió táp mưa sa hay phong ba bão tố, áo vẫn neo chặt bên người. Những lúc bươn rừng bứt mây đốn củi, cây thọt, gai cào, toàn thân trầy xước nhưng áo không ngại. Khó khăn hơn là lúc lên nóc sửa tranh, lợp nhà, gió xô xồng xộc nhưng áo vẫn bám người, bám mái cho đến khi xong việc. Mùa lũ, áo thức cùng người để thăm dò con nước. Áo theo lên sõng đưa đò, áo cùng người bơi xuồng, thả câu buông lưới. Áo đi sớm về khuya, đi mưa về gió, chỉ mong sao lửa đỏ, bếp hồng. Nhà dột, tơi lá sẵn sàng thay tranh, ngói, lên trải mình, nằm rui chắn nước. Nửa đêm mưa, nghe hàng xóm có chuyện không lành, áo vội vàng khoát vai, dò dẫm đến thăm…
Cha mẹ tôi một đời nón cời - tơi lá. Mẹ mất sớm, cha mang tơi đi giữa chớp bể mưa nguồn tìm nguồn sống nuôi con. Chân cha mòn mỏi, rã rời. Cha nhường cho các con những chiếc áo đi mưa bằng nhựa tốt, lành lặn, tự lên rừng cắt lá về chằm nên áo tơi cho mình. Chiếc áo tơi cha đã mấy mùa thay lá. Lá cứ rụng theo từng ngày chúng tôi lớn khôn. Rồi đến ngày các con cha yên bề gia thất cũng là lúc chiếc áo tơi cha thụng thịu, trơ xương. Về thăm cha trong một ngày mưa dầm, nhìn chiếc áo tơi trụi lá, rớt mồng, ngoẹo cổ trên vách bếp trống trơn rồi nhìn lại mình đang mặc bộ đồ đi mưa tinh tươm, tôi chợt giật mình… lặng người đau xót… thì thầm: “thương, quý quá tơi lá ơi!”…
BÙI TẤN PHƯỚC