Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII: Góp ý Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi)
Sáng 10.11.2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) thảo luận về Dự án Luật đầu tư (sửa đổi). Dưới đây là nội dung phát biểu của ĐBQH Nguyễn Văn Cảnh (Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Định) về Dự án Luật nói trên tại buổi thảo luận.
Trước hết, tôi xin được đồng tình với báo cáo tiếp thu, chỉnh lý, giải trình Dự án Luật đầu tư (sửa đổi) của Ủy ban Thường vụ QH. Để bổ sung hoàn thiện dự thảo Luật, tôi xin góp ý ba nội dung. Nội dung thứ nhất liên quan đến việc nâng cao năng suất lao động (NSLĐ). Qua phát biểu của các đại biểu tại phiên thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội, nhiều phân tích và giải pháp đã được đưa ra. Tôi xin được phân tích bổ sung giải pháp thông qua chính sách trong Luật đầu tư.
Ưu đãi đối với sản xuất sản phẩm chất lượng cao
Chúng ta biết, muốn nâng cao NSLĐ thông qua việc tăng giá trị sản phẩm thì phải nâng cao chất lượng sản phẩm (CLSP). Hiện nay, chúng ta còn lãng phí nhiều yếu tố tạo nên chất lượng sản phẩm. Ví dụ như nụ cười đối với sản phẩm dịch vụ. Nếu người cung cấp sản phẩm dịch vụ vui vẻ thì CLSP du lịch, hành chính, y tế và nhiều dịch vụ khác sẽ được nâng lên. Trong nội dung góp ý này, tôi chỉ xin nói đến chất lượng trong hoạt động sản xuất.
Doanh nghiệp (DN) trong nước hiện có đủ năng lực để sản xuất nhiều sản phẩm, đáp ứng nhu cầu cho nhiều thị trường, nhưng phần lớn còn chưa tận dụng hết các yếu tố đầu vào và CLSP còn thiếu tính ổn định. Các DN sản xuất hàng xuất khẩu thấy rõ một điều là cũng nguyên liệu đó, con người đó, máy móc đó, khi khách hàng đặt tiêu chuẩn cao và kiểm tra kỹ thì sản phẩm làm ra đều tốt, còn khách hàng giao cho DN tự sản xuất thì hàng có chất lượng không đều, hoặc kém chất lượng. Từ đó cho thấy việc quy định tiêu chuẩn và tăng cường công tác kiểm tra ảnh hưởng rất lớn đến CLSP.
Chúng ta có nhiều sản phẩm được cho là có chất lượng, nhiều sản phẩm được tuyên dương hàng Việt Nam chất lượng cao, nhưng hàng Việt có mặt trên thị trường thế giới chủ yếu là dưới thương hiệu nước ngoài. Vậy chúng ta phải đánh giá lại hàng Việt Nam đã đạt được chất lượng ở chuẩn nào, tiêu chuẩn Việt Nam nằm ở vị trí nào trong khu vực, trên thế giới. Nếu đối chiếu với các quy định trong Luật CLSP hàng hóa thì nhà sản xuất, người bán còn nhiều sai phạm, như thông tin sai sự thật về CLSP, không dùng đúng nguyên vật liệu trong sản xuất…
Để nâng cao giá trị hàng Việt, ngành được phân công quy định CLSP và ngành được phân công quản lý CLSP cần phối hợp để đánh giá lại chất lượng hàng hóa trong nước và hàng xuất khẩu, tăng cường hướng dẫn các DN hiểu rõ hơn về tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu để các DN biết được rằng muốn cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, trước mắt là trong khu vực như DN Thái Lan, Indonesia… thì họ phải đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ nào phù hợp; đặt hàng cho ngành giáo dục, dạy nghề đào tạo người lao động những kiến thức, kỹ năng gì... Vì nếu đầu tư dư thì không hiệu quả, đầu tư thiếu thì kém cạnh tranh. Biết đầu tư đúng và đủ thì DN mới có đủ năng lực, chủ động tham gia cạnh tranh với DN nước ngoài.
Nếu các tiêu chuẩn về chất lượng được quản lý chặt chẽ thì chúng ta cũng phân loại được năng lực của các DN. Các DN có sản phẩm chất lượng cao sẽ tạo ra một thị trường riêng, có khung giá riêng; DN kém hơn thì có sản phẩm nằm ở một phân khúc thị trường khác. Có như vậy chúng ta mới hướng các DN cạnh tranh dựa vào chất lượng, không phải là cạnh tranh về giá để phải giảm CLSP, dẫn đến việc người tiêu dùng không biết đâu là sản phẩm xứng đáng với số tiền mình đã bỏ ra.
Nếu Nhà nước và người dân kiên quyết là những khách hàng khó tính thì tôi tin rằng chất lượng hàng hóa trong nước sẽ sớm được nâng lên, đủ sức cạnh tranh so với hàng ngoại nhập.
Nâng cao CLSP còn để nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, nguyên vật liệu, sức lao động; cũng là để Việt Nam có đủ năng lực tạo ra các rào cản kỹ thuật, thay thế dần các sản phẩm ngoại nhập kém chất lượng.
Quá đó, tôi đề nghị quy định thêm trong Luật tại khoản 1 điều 16 một điểm có nội dung là “ưu đãi đối với sản xuất sản phẩm chất lượng cao”. Như vậy không chỉ sản phẩm công nghệ cao mà các sản phẩm thông thường như rau, củ, quả, giày dép, quần áo, cá, gạo, cà phê… có chất lượng cao cũng đem lại nhiều giá trị gia tăng cao hơn, nâng cao NSLĐ của Việt Nam. Với nhiều sản phẩm chất lượng cao, tôi tin kinh tế Việt Nam sẽ cất cánh, ngược lại là không thể nếu nền kinh tế cứ phải mang gánh nặng của những sản phẩm mà tổng giá trị chỉ nhờ vào số lượng.
Ưu đãi đối với sản xuất sản phẩm được nội địa hóa
Nội dung thứ hai liên quan đến quy định ngành, nghề ưu đãi đầu tư. Tôi đề nghị bổ sung vào khoản 1, điều 16 một điểm có nội dung là “ưu đãi đối với sản xuất sản phẩm được nội địa hóa”. Mặc dù tại điểm d, khoản 1, điều 10 quy định không bắt buộc nhà đầu tư đạt được tỷ lệ nội địa hóa (NĐH) nhưng chúng ta cũng nên khuyến khích việc NĐH. Tôi xin phân tích riêng tác động của chính sách NĐH đối với ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT).
Hiện nay, hệ thống cung cấp sản phẩm cho ngành CNHT hầu hết là của nước ngoài. Dù chính phủ đã tạo nhiều điều kiện nhưng với sự non trẻ của ngành, các DN đã không thể đáp ứng yêu cầu của thị trường do yêu cầu chất lượng cao hơn so với công nghệ và năng lực của doanh nghiệp trong nước.
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, rào cản về thuế giảm dần thì các sản phẩm của ngành công nghiệp hỗ trợ nhập vào sẽ rẻ hơn và chiếm lĩnh thị trường trong nước. Nếu có chính sách khuyến khích sản phẩm NĐH, các DN sản xuất sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm cơ khí trọng điểm sẽ tìm kiếm sản phẩm đầu vào trong nước để được hưởng ưu đãi. Ngay cả khi DN trong nước có ưu đãi mà cũng không thể cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài thì các DN cần sản phẩm đầu vào sẽ hợp tác, hướng dẫn, chuyển giao công nghệ cho DN Việt Nam hoặc kêu gọi các DN nước ngoài có đủ trình độ khoa học công nghệ đáp ứng được nhu cầu của họ để xây dựng cơ sở sản xuất tại Việt Nam để hưởng ưu đãi. Dù với hình thức nào thì ngành CNHT trong nước cũng phát triển hơn. Vậy với chính sách NĐH và chính sách ưu đãi ngành CNHT sẽ giúp Việt Nam nâng cao hơn giá trị giá tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu của sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm cơ khí trọng điểm, tạo thêm nhiều ngành mới phát triển, giải quyết thêm công ăn việc làm và góp phần vào phát triển chung của đất nước.
Về ngành nghề có nguy cơ gây tác hại...
Nội dung thứ ba liên quan đến quyền tự do thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm nhằm tạo điều kiện tối đa cho DN, người dân đầu tư, kinh doanh. Theo tôi, việc phát sinh ngành, nghề mới hoặc ngành, nghề chưa được quy định trong luật có nguy cơ gây tác hại đến tình hình an ninh, chính trị, kinh tế, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe con người, đạo đức, văn hóa truyền thống của Việt Nam là điều khó tránh khỏi khi luật có hiệu lực.
Để có đủ cơ sở pháp lý dừng kịp thời các ngành, nghề có nguy cơ như nói trên, tôi đề nghị tại điều 8 cần quy định thêm 1 khoản có nội dung như sau “nếu xét thấy ngành, nghề mà tổ chức, cá nhân đầu tư, kinh doanh có nguy cơ gây tác hại đến tình hình an ninh, chính trị, kinh tế, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe con người, đạo đức, văn hóa truyền thống của Việt Nam thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có quyền kiến nghị Quốc hội trong thời gian họp hoặc Ủy ban Thường vụ QH trong thời gian giữa hai kỳ họp để quyết định tạm ngừng ngay hoạt động đầu tư, kinh doanh của ngành, nghề đó sau khi đã lấy ý kiến của Chính phủ; xem xét bổ sung ngành, nghề này vào danh mục các ngành, nghề bị cấm hoặc ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện theo thủ tục rút gọn. Tổ chức, cá nhân đã đầu tư, kinh doanh được bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật”.
N.V.C
(*)Tít bài và các tít con do tòa soạn đặt.