Đôi điều về khảo cổ học dưới nước ở Bình Định
Giữa tháng 10.2014, lần đầu tiên, một hội thảo khoa học quốc tế về khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam và Đông Nam Á được tổ chức (tại Quảng Ngãi). Tại hội thảo, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã khẳng định tiềm năng to lớn của khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam. Trong bức tranh chung đó, khảo cổ học dưới nước ở Bình Định chiếm một vị trí quan trọng.
Tiềm năng và thách thức
Được mời tham dự hội thảo về khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam và Đông Nam Á tại Quảng Ngãi hồi tháng 10.2014, Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Bình Định Đinh Bá Hòa cho biết, khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam đặc biệt thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Đa số phát biểu, tham luận của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh về tiềm năng to lớn của khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam và những băn khoăn trong công tác nghiên cứu.
Tiềm năng ấy dựa trên những cơ sở: Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.000 km và hoạt động trên biển diễn ra trên 2.000 năm về trước. Do nằm trên trục hải thương giữa Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á, Nam Á và Tây Á nên Việt Nam là mắt xích quan trọng trong tuyến hải thương ven biển và là một trong những khu vực buôn bán sầm uất. Từ những thương cảng sầm uất đó, có nhiều tàu đắm dọc biển Việt Nam có niên đại từ thế kỷ 8 đến 18. “Cho đến nay, trên những vùng biển cả nước đã có 6 tàu đắm cùng hàng chục nghìn hiện vật được khai quật, trục vớt”, tiến sĩ Đinh Bá Hòa thông tin. Do vậy, Việt Nam được nhìn nhận là quốc gia có tiềm năng khảo cổ học dưới nước rất lớn, gồm những loại hình di tích chìm ngập có niên đại hàng chục nghìn năm trước, cảng và thương cảng, di tích tàu đắm có nguồn gốc từ nhiều quốc gia thương mại trên thế giới…
Tiềm năng lớn là vậy, song khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam đã và đang đối diện với nhiều khó khăn trong công tác nghiên cứu như: thiếu đội ngũ chuyên gia nghiên cứu về khảo cổ dưới nước, năng lực tài chính và cơ sở vật chất còn thấp, hành lang pháp lý để bảo vệ di sản văn hóa dưới nước chưa hoàn thiện, nhận thức của các ngành chức năng và cộng đồng xã hội về di sản văn hóa dưới nước còn hạn chế… “Phòng khảo cổ học dưới nước trực thuộc Viện Khảo cổ học Việt Nam là một phòng chuyên môn mới thành lập (9.2013), nhằm từng bước xây dựng cho ngành khoa học còn hết sức mới mẻ, hấp dẫn nhưng cũng đầy khó khăn, thách thức này. Được biết, trong kế hoạch nghiên cứu của mình, Phòng khảo cổ học dưới nước sẽ phối hợp với các tổ chức, chuyên gia nước ngoài khảo sát, khai quật một số vùng biển quan trọng như bến cảng Vân Đồn, bãi cọc Bạch Đằng và đầm Thị Nại, điều này nói lên tầm quan trọng của khảo cổ học dưới nước ở Bình Định”, tiến sĩ Đinh Bá Hòa cho biết.
“Giải mã” đầm Thị Nại
Nói đến tiềm năng khảo cổ học dưới nước ở Bình Định, đầm Thị Nại là địa chỉ nghiên cứu quan trọng hàng đầu không thể bỏ qua. Với đặc điểm là một quân cảng và thương cảng từ thời vương quốc Chămpa đến Đại Việt, trong lòng đầm Thị Nại chứa đựng dấu tích của lịch sử. Đặc biệt, nơi đây diễn ra những trận thủy chiến ác liệt dưới thời các triều đại: Chămpa, Tây Sơn, triều Nguyễn.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Xuân Nhân, sách “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII” của tác giả Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm miêu tả khá tỉ mỉ những trận hải chiến giữa quân Nguyên - Mông và Chămpa trên vùng biển Thị Nại. Được sử sách ghi chép nhiều nhất là những trận thủy chiến nổi tiếng giữa thủy quân của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn. Theo đó, khoảng thời gian từ năm 1792 - 1801, thủy quân hai bên đã 5 lần giao chiến trên đầm Thị Nại. Theo thông tin từ Bảo tàng Tổng hợp tỉnh, đến nay, tuy chưa có cuộc khai quật, trục vớt nào trên đầm Thị Nại song qua quá trình khai thác đánh bắt thủy sản, ngư dân vô tình phát hiện và sau đó cơ quan chức năng đã trục vớt 14 khẩu súng thần công tại đầm. Đây chính là chứng tích còn lại của những trận thủy chiến giữa quân Tây Sơn và quân nhà Nguyễn.
“Với đặc điểm lịch sử của mình, chắc chắn trong lòng đầm Thị Nại chứa đựng rất nhiều dấu tích lịch sử cần phải được nghiên cứu để làm rõ. Tuy vậy, khảo cổ học dưới nước là một ngành khoa học còn khá mới mẻ và non trẻ ở Việt Nam, yêu cầu cao về nhân lực chuyên môn và kinh phí so với khảo cổ học trên cạn. Mong rằng những khó khăn này sẽ dần được tháo gỡ để sớm giải mã và có thể bảo tồn, phát huy những di sản văn hóa còn chìm sâu dưới đáy nước”, tiến sĩ Đinh Bá Hòa hy vọng.
SAO LY