Cánh tay đã mất
Truyện ngắn của Lê Hứa Huyền Trân
Từ khi vào làm ở công ty mới, tôi đã đổi thay nhiều. Giống như là khi con người ta chạm ngưỡng cuộc đời, dẫu cho muốn mình mãi là con trẻ cũng không thể nào được như xưa. Tôi bớt vu vơ, nghĩ suy toan tính, nhận ra nhiều điều trước cứ nghĩ hoài không thấy.
Làm ở công ty có cái thú vui thích tiệc tùng. Chẳng nhiều nhặn gì đâu, nhưng mọi người thích họp mặt, nên hầu như cuối tuần nào cũng góp tiền, kiếm quán ăn rẻ mà tụ bạ. Đàn ông thì lai rai bia bọt, đàn bà thì ăn chăm chỉ, rì rầm trò chuyện. Ấy thế mà cũng có quán quen. Và cứ mỗi lần tới đây, tôi lại gặp chị, người bán vé số đã mất một tay.
Chẳng phải cố tình nhưng cánh tay bị mất của chị thu hút cái nhìn của nhiều người. Khi họ thấy chị, thể nào họ cũng sẽ nhìn cánh tay của chị đầu tiên, cánh tay đã mất ấy tạo một “mảng mất” tới tận bả vai. Tôi cũng thế, khi chị tới bàn chúng tôi ngồi, tôi đã vô tình lướt ánh mắt vào chỗ tay ấy, và ngay lập tức tôi nhìn lên gương mặt chị, ánh mắt chị đã bắt gặp ánh mắt tôi trước khi tôi kịp quay đi nhìn chỗ khác. Ngay lập tức cảm giác hối hận lan tỏa trong tôi. Bàn tôi mua vài tờ rồi chị đi, leo lên xe đạp, tiếp tục những guồng quay của đời mình. Suốt cả buổi hôm ấy sẽ chẳng bao giờ tôi quên được ánh mắt ấy, cứ như ánh nhìn xen lẫn thương hại và tò mò của tôi đã làm đau lòng một kiếp người nào đó vậy. Nhưng thực, tôi chẳng thể lý giải nổi sự vô tình của mình lúc ấy.
Lần thứ hai tôi gặp chị, hôm đó có cô. Cô là mẹ của sếp. Cô có cái cung cách của người mới giàu; lại là do người khác lao động, nghĩ suy mà có, đại loại như trường hợp cô là do con cô giàu mà rồi cô thành người giàu. Cô cứ hay bắt đầu câu chuyện bằng những lời mà chúng tôi thuộc đến mức nghe cứ như đinh đóng vào não. “Muốn được người ta tôn trọng thì trước hết là phải giàu. Vì nghèo là đi đôi với hèn…”. Nhiều khi cô nhìn đám nhân viên lố nhố chúng tôi rồi rủ lòng thương khuyên răn - “Tụi mày không muốn người ta khinh thì ráng mà làm. Phải có tiền. Thật nhiều tiền…”.
Chị tới chào mời bàn tôi, đứng ngay bên cạnh cô, vừa chìa xấp vé số ra, chị mời:
- Cô mua giùm con mấy tờ vé số với cô!
Cô không nhìn chị và nói bằng giọng khinh khỉnh:
- Xin lỗi cô, tôi không có biết chữ!
Chị cười cười và vẫn chìa xấp vé số về phía cô vì cứ nghĩ đó là lời bông đùa. Cô quắt đầu thật mạnh:
- Tôi không biết chữ, không biết cả đếm số thì mua làm cái gì!
Chị cười cười rồi quay đi. Bộ dạng chị trở nên tập tễnh khó khăn hơn hẳn. Lúc này cô mới nhìn đám tôi và bảo:
- Tao rất ghét những đứa bán vé số dạo. Sao cái chỗ này người ta cho những người như thế vào nhỉ? Chẳng còn gì là văn minh…
Rồi cô thao thao bất tuyệt về văn minh nước ngoài nào đó không cho những kẻ buôn bán vớ vẩn, linh tinh như thế vào quán… Còn chúng tôi, chúng tôi nhìn nhau không nói nên lời. Trong chúng tôi lúc ấy, sẽ chẳng ai là anh hùng như trong truyện cổ tích có thể lên tiếng bảo cô đừng xúc phạm những người lương thiện. Cũng chẳng ai đủ can đảm như trong câu chuyện về lòng người mà tôi đã từng đọc, dám phản đối lại mẹ của sếp mình. Ai cũng vờ như không nghe thấy, không nhìn thấy điều vừa diễn ra. Rì rầm cụp mặt xuống trò chuyện với nhau. Tôi, tất nhiên cũng thế. Tôi ngồi im. Tôi có thể làm được gì? Tôi chỉ phán xét trong lòng và sự khinh bỉ dẫu có đến đâu cũng chỉ bùng nổ trong lòng. Chẳng ai trong chúng tôi - không một ai trong số chúng tôi - đứng ra, dẫu chỉ là nói một câu thương cảm cho người phụ nữ ấy. Chúng tôi im lặng.
Cuộc sống, chưa bao giờ dễ dàng, giờ thì tôi chứng nghiệm được điều này. Có đôi lúc sự lương thiện chẳng thể nào lên ngôi vì nhiều thứ. Người ta có thể kiềm chế cảm xúc của mình lại cũng bởi nhiều thứ trong cuộc sống. Vào đời, ngay lập tức tôi học được chữ nhẫn, chữ nhịn. Dù tôi biết không lên tiếng là yếu hèn. Nhưng im lặng là an toàn. Tôi dần biết cách vỗ về lương tri của mình bằng cách bao biện - thế giới mà tôi đang sống, nó khắc nghiệt quá. Nói ra điều ấy, bênh vực người lương thiện, nhất là người vô danh, là tha nhân nào có ý nghĩa gì đâu. Hoặc đơn giản hơn, nói là sẽ mất việc, là phải đi tìm việc mới, mà tìm việc giờ thì khó như đi tìm ngọc.
Lần gặp sau gặp lại chị, tôi cố gắng nán lại bắt chuyện với chị. Vì ý nhị, tôi như kẻ theo dõi đi theo chị suốt con đường chị bán vé số cho tới khi khuya về mới xin gặp chị. Dường như thấy được sự đồng cảm nào đó, và bằng một sức mạnh thần kỳ nào đó, hai người đàn bà đã ngồi nói chuyện đời mình. Chị còn trẻ, chưa đến ba mươi, cánh tay chị mất trong một lần tai nạn, tai nạn ấy không chỉ cướp của chị cánh tay mà còn cướp luôn đấng sinh thành. Họ hàng chị không ai mặn mà việc nuôi thêm một người tàn tật… Tôi ngẩng lên nhìn chị. Tôi muốn mình sẽ đưa bờ vai cho chị dựa lúc này nhưng tôi thấy trên môi ấy là một nụ cười. Chị cười rất tươi: “Nhưng giờ thì chị yên tâm rồi”.
Rồi tôi không gặp lại chị nữa. Nhiều tháng trôi qua, tôi sống tiếp cuộc đời mình với ký ức về những người tôi gặp đã để lại trong tôi ấn tượng. Và trong một lần sang đường, từ phía xa tôi nhìn thấy chị. Chẳng phải là câu chuyện cổ tích rằng chị lấy được người chồng giàu có nào đó, và trở thành một nàng công chúa. Chị vẫn bán vé số, vẫn rảo bước khắp mọi nẻo đường, nhưng lúc này đi bên chị có một đứa trẻ. Gương mặt chị sáng rực lên. Khi bắt gặp thứ ánh sáng ấy trên gương mặt chị, tôi chợt thấy dường như với họ, cả thế giới chỉ còn hai người ấy. Và cũng thật vô tình, như là phép nhiệm màu duy nhất trong câu chuyện mà tôi kể ra đây, chị nhìn thấy tôi, nụ cười tươi rói như lần tôi gặp đêm hôm ấy rót vào tôi dòng ánh sáng bất ngờ. Bên chị đã có thêm một cánh tay, à mà không, nhiều cánh tay khác thay thế cánh tay đã mất ấy…
Còn tôi, tôi học cách im lặng nhanh lắm. Dù đôi khi im lặng xong, dù vỗ về mình rất lâu, tôi vẫn thấy khi im lặng như thế, tôi khá giống một kẻ bất lương.
L.H.H.T