Thầy
Tản văn của TRẦN THỊ HUYỀN TRANG
Trong đời mỗi chúng ta có rất nhiều người thầy. Thầy trong chữ nghĩa, thầy trong đối tác, thầy trong bè bạn... Nhưng hôm nay, tôi muốn dành chữ Thầy để nói về người Thầy đặc biệt nhất của tôi, thầy chủ nhiệm lớp Một.
Năm 1970, tôi vào lớp Một trường Tiểu học Bình Định huyện An Nhơn, cách nhà khoảng nửa cây số đường đất. Lũ chúng tôi thuở ấy chỉ được ông bà, cha mẹ đưa đến trường vài ba lần cho quen rồi sau đó hàng ngày tự đi. Ngày xưa đường thị trấn ít xe cộ, đứa lớp trên trong xóm thường để mắt đến đứa lớp dưới, nhất là những em lớp Một nên các bậc phụ huynh có thể yên tâm phó thác. Lớn đối với bé thường là yêu thương, nhưng lớn đối với bé thỉnh thoảng cũng hay xảy ra bắt chẹt. Tất cả những ngọt ngào hay tức tưởi của tuổi thơ về sau đều trở thành kỷ niệm, nhưng ngay tại những thời điểm như thế, qua ánh mắt trẻ thơ mọi chuyện đều to hơn kích thước bình thường.
Chủ nhiệm lớp Một A của tôi là thầy Hồ Minh Xuân, nghiêm, hiền, dáng vẻ thư sinh. Đặc biệt tay thầy tôi cầm phấn rất đẹp, cầm thước cũng rất đẹp. Cầm phấn viết bảng, còn cầm thước để đánh nhịp cho chúng tôi tập đọc. Mỗi khi thấy một ai viết chữ đẹp, tôi thường nhớ đến thầy, nhưng trong sự so sánh của tôi, chưa có ai viết chữ đẹp qua thầy tôi cả. Thầy hát không hay lắm, nhưng bài hát thầy dạy lớp tôi ngày ấy là bài tôi và các bạn cùng lớp thuộc nằm lòng cho tới bây giờ.
Hàng ngày, thầy đến trường bằng xe đạp, nhưng khi thấy lũ học trò bé bỏng của mình, thầy lại xuống xe dắt bộ đi cùng với chúng tôi. Các thầy cô giáo khác không thế, cho nên lớp tôi tự hào lắm, rằng thầy tao đẹp nhất, thầy tao thương học trò nhất, còn thầy chúng mày... Dại dột, chúng tôi từng đánh nhau lách chách với bọn lớp Một C vì chúng dám nói thầy tôi nghèo...rớt mồng tơi, còn thầy chúng nó sang trọng, quần áo thơm lừng nước hoa, cưỡi honda bóng lộn tới trường. Một lần như vậy, hai thầy đến kịp, vừa cười vừa gỡ chúng tôi ra khỏi nhau, trong khi chúng tôi tức anh ách. Vào lớp hôm ấy có giờ Khoa học thường thức. Hàng tuần vào giờ này, thầy tôi thể nào cũng bảo học trò đặt hai tay lên bàn để thầy xem có cắt móng tay và giữ tay sạch sẽ không. Thầy sẽ chọn một trò có bàn tay sạch nhất, bế bổng lên, bảo trò giơ tay cho cả lớp xem. Tôi thường được tuyên dương trước lớp như vậy. Hôm đó thầy cũng cúi xuống bế tôi lên như thường lệ, nhưng khi thầy bảo tôi xòe tay ra thì ôi thôi, lòng bàn tay tôi đầy mực tím, do lúc tôi bị bạn túm tóc, lọ mực trên tay bị xóc, mực tràn khỏi toi (ngòi). Cả lớp cười ồ, thầy ngượng quá, bắt tôi đặt hai tay lên bàn rồi gõ nhẹ cây thước giữa lòng tay: "Sao hôm nay tay con vấy mực?" Tôi òa khóc, khóc rất dai vì cảm thấy oan ức mà không nói được. Thầy dỗ mãi, bảo nín đi thầy cho về nhà thầy chơi với em Hảo, tôi mới nguôi nguôi. (Thầy có bảy người con, Hảo là con út của thầy, kém tôi hai tuổi. Thỉnh thoảng lúc dạy chúng tôi tưới cây ở vườn trường, thầy dẫn Hảo theo. Em bé rất ngộ nghĩnh nên lớp tôi đứa nào cũng thích).
Con đường tới trường của chúng tôi mùa mưa thường có một quãng lầy lội, rộng bằng một tầm giang tay người lớn, lũ học trò nhỏ rất khó qua, đứa nào tự qua được người cũng lấm lem. Thầy chứng kiến học trò tới lớp quần áo đầy bùn, xót lắm. Thầy bàn với chú cai trường, cưa một thân dừa gãy, hì hục lăn ra quãng lầy bắc cho chúng tôi một cây cầu. Nhờ vậy chúng tôi mới khỏi lội bùn. Từ đấy, những năm về sau, năm nào thầy cũng bắc cầu dừa cho học trò vượt vũng lầy.
Đến năm tôi học lớp Bốn thì cô Minh nói thầy Xuân bị gãy chân trong lúc cưa thân dừa. Lớp tôi khóc như ri, đòi cô cho nghỉ học để đi thăm thầy. Cô Minh cho nghỉ tiết cuối và dẫn lớp tôi đến bệnh viện huyện. Chân thầy đã được bó bột. Cả lũ trò nhỏ líu lo hỏi làm thầy không kịp trả lời. Cô Minh lắc đầu: Anh có phép gì mà lũ nhỏ mê anh quá vậy! "Phép" của thầy là yêu thương hết lòng. Nhà thằng Min nghèo, mẹ nó không sắm nổi áo quần tử tế cho con, quanh năm suốt tháng nó mặc đồ rách, hở cả phec-mơ-tuya, mỗi lần bị gọi lên dò bài phải khum tay che đậy. Thầy tôi bỏ lương tháng ra mua vải, bảo vợ thầy may cho nó một cái quần tây, rồi nói nếu nó cố gắng từ vị thứ ba mươi vươn lên vị thứ mười, thầy sẽ thưởng cái áo. Thằng Min chăm học hẳn, mỗi tháng lên vài bậc. Đến khi nó xếp vị thứ chín, thầy tôi đọc bảng xếp loại xong lấy trong cặp ra một gói nhỏ, thầy thay áo luôn cho nó và ôm nó vào lòng. Chúng tôi vỗ tay ầm trời, còn thằng Min khóc nức nở. Cái áo mới trắng tinh thấm nước mắt của đứa học trò nghèo.
Khi cô y tá đến bên giường bệnh tiêm thuốc cho thầy, thầy quay sang hỏi tôi: "Con còn sợ chích kim không?". "Dạ, con hơi sợ"."Con đừng sợ gì cả. Chỉ như kiến cắn thôi! Nhớ không con?". Chỉ như kiến cắn thôi - thầy trấn an tôi vậy trong lần tiêm ngừa đậu mùa lớp Một. Thấy xe y tế, bọn bạn đứa nào nhanh chân nhảy đi trốn hết. Tôi lủn củn không thể nhảy qua cửa sổ, bèn chạy tới bên bàn làm việc của thầy, chui xuống gầm bàn để trốn. Thầy nhìn ra hành lang, thấy những người mặc áo blu trắng đẩy xe thuốc, biết ngay là tôi sợ. Thầy đưa tay về phía tôi: "Ra đây với thầy, đừng sợ". Thầy dắt tôi đến bên cô y tá, nhỏ nhẹ: "Đây là học trò nhỏ nhất giỏi nhất của tôi, cô chủng đậu cho cháu thật êm nghe!". Cô y tá dịu dàng mỉm cười. Thầy bảo tôi: “Con nhìn xem, không đau đâu. Chỉ như kiến cắn thôi con à!”
Thưa thầy! Con đã vượt qua nhiều nỗi đắng cay với lời trấn an mầu nhiệm của thầy. Còn nhớ ngày em Hảo chạy đến báo tin thầy mất, lớp Một A xưa đã mỗi đứa một phương, chỉ còn con và Min băng đồng tháng mười tiễn thầy về lòng đất. Hôm đó con và Min đều khóc, khóc rất dai, khóc như chưa từng bước qua lớp Một, lòng nhói đau khi nghĩ rằng nhịp thước tập ngắt câu trong tay thầy chỉ còn trong ký ức. Thầy ơi!
T.T.H.T