Nhân ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23.11):
Trăn trở với công tác bảo tồn “những di chỉ của ký ức”
Sự xâm hại các di tích lịch sử - văn hoá, nhất là di tích khảo cổ học; sự tuỳ tiện trong công tác bảo tồn có thể dẫn đến việc làm thay đổi yếu tố gốc của di tích... là những vấn đề đang đặt ra trong công tác bảo tồn di sản hiện nay.
Di tích lịch sử - văn hoá là một bộ phận quan trọng của di sản văn hoá dân tộc. Di tích lịch sử là những gì còn lại với thời gian. Vì vậy, nói một cách chặt chẽ, tất cả các di tích đều là di tích lịch sử.
Những di tích lịch sử - văn hoá là nguồn sử liệu trực tiếp, cho ta thông tin quan trọng để khôi phục những trang sử hùng tráng, có thể là bi tráng của dân tộc. Đó là những thông điệp mà cha ông ta để lại cho thế hệ mai sau. Qua di tích lịch sử, ta hiểu sâu sắc hơn về bản sắc văn hoá dân tộc.
Chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ các di tích đã có, đồng thời cũng phải phát hiện, xây dựng các di tích mới. Nhưng thực tế hiện nay, một số di tích hiện tồn đang có nguy cơ bị làm biến dạng hay thậm chí biến mất.
Dễ nhận thấy, miền Trung vốn nắng lắm, mưa nhiều là một trong những nguyên nhân khách quan khiến di tích bị tàn phá bởi thời gian. Nhưng trong quá trình đô thị hoá nhanh như hiện nay, phá hoại của con người xem ra còn lớn hơn nhiều so với mức tàn phá của thiên nhiên.
Người ta thường nói đến sự lấn chiếm đất đai của di tích. Không ít cơ quan nhà nước đã lấn di tích để làm trụ sở; có những di tích khảo cổ mà các cơ quan nghiên cứu khảo cổ không thể thăm dò hay khai quật. Nhiều di tích khảo cổ bị đào bởi bởi những người tìm vàng hay săn đồ cổ…
Bên cạnh đó, một cách “phá hoại” di tích nữa là trùng tu chưa đúng khoa học. Người ta cạo lớp sơn trên các tượng cũ ở các đình, chùa để sơn lên đó lớp sơn loè loẹt. Người ta xây các cột xi măng để thay cột gỗ và lát gạch nền chùa bằng gạch hoa...
Tất nhiên, chúng ta luôn đối diện với không ít mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội với việc bảo tồn di tích. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển, đô thị hóa dồn dập với yêu cầu bảo vệ nguyên trạng di tích; mâu thuẫn giữa nhu cầu thực tiễn của bảo tồn với khả năng đầu tư kinh phí của Nhà nước; mâu thuẫn giữa yêu cầu khoa học ngày càng cao của công tác bảo tồn với khả năng chuyên môn của các cán bộ chuyên ngành bảo tồn di tích.
Chúng ta hiểu, hàng năm Nhà nước đầu tư một khoản kinh phí không nhỏ cho việc trùng tu di di tích. Tuy nhiên, có một loại hình di tích rất cần thận trọng trong việc trùng tu, tôn tạo thì chúng ta lại làm quá nhanh. Di tích tháp Chăm là một ví dụ. Đáng ra, chúng ta cần tổ chức những hội thảo khoa học để tìm kỹ thuật tối ưu trong trùng tu loại hình di tích này thì chúng ta lại quá hăng hái trùng tu. Đáng lẽ phải tìm cách đưa những mảng điêu khắc trang trí trả lại cho di tích thì chúng ta đem chất đống rồi đưa đá mới vào… Bởi vậy, về kỹ thuật, cùng một loại hình di tích tháp Chăm nhưng có tới 2-3 kỹ thuật trùng tu được áp dụng. Có tháp dùng xi măng, có tháp dùng keo dán gạch. Về trang trí, có tháp cho làm trang trí như cũ, nhưng có tháp lại để trơn.
Như vậy, điều trước tiên cần lưu tâm không chỉ ở vấn đề tài chính hay kỹ thuật mà chính là ý thức bảo vệ di sản, ý thức coi trọng tính nguyên gốc của di tích. Việc tuyên truyền bảo vệ di sản văn hoá dân tộc hiện chưa trở thành một chiến dịch như đã làm với kế hoạch hóa gia đình, hay ăn muối i-ốt; cũng chưa có một ngày Toàn dân bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa để nâng cao ý thức và sự chung tay của cộng đồng.
Một vấn đề nữa cũng khá cấp thiết là đổi mới cách quản lý di tích. Nhiều người bàn đến cơ chế, từ công nhận di tích đến phân cấp quản lý và coi đó là một biện pháp bảo vệ di tích. Nhưng những cơ chế này không thể chỉ bó khuôn để chỉ áp trong nội bộ ngành văn hóa. Ví như trong công tác kiểm kê, có di tích nằm trong danh sách kiểm kê của ngành văn hóa nhưng khi kiểm tra lại thì đâu còn nữa. Ngay trong việc đề nghị công nhận, có di tích có giá trị thì không được công nhận nhưng có di tích giá trị không mấy nổi bật thì lại đề nghị xếp hạng...
Trong các loại di tích lịch sử - văn hoá, di tích ở dưới mặt đất, tức di tích khảo cổ học, có một vị trí quan trọng. Di tích loại này nhiều về số lượng và rất phong phú về loại hình. Việc bảo vệ di tích khảo cổ học rất khó khăn và lãnh đạo các địa phương dường như cũng không mấy chú ý đến loại hình di tích này. Việc cấp phép khai quật khảo cổ cũng khá tuỳ tiện. Luật Di sản quy định người chủ trì khai quật phải có chuyên môn về khảo cổ nhưng địa phương, ngành lại tuỳ tiện đề nghị cấp phép cho những người không có chuyên môn. Khai quật tàu đắm Cà Mau là một ví dụ. Địa phương thuê ngư dân lặn và trả tiền từng sọt; rồi gần đây tại Quảng Ngãi, cũng giao tư nhân thuê thợ lặn. Mãi gần đây, Viện Khảo cổ học mới thành lập Phòng Khảo cổ học dưới nước nhưng lại chưa có nhân viên được đào tạo chuyên ngành về khảo cổ học dưới nước, trong khi các nước xung quanh ta như Thái Lan, Philippine, Malaysia đều đã có.
Bao nỗi niềm quanh việc bảo tồn di sản - “những di chỉ của ký ức”. Phải làm thế nào ý thức bảo vệ di sản văn hoá dân tộc trở thành thường trực trong mỗi người dân, để công việc bảo vệ di sản văn hoá được xã hội hóa - đó là cả một vấn đề.
ĐINH BÁ HÒA