Giải pháp phòng, chống lũ quét và lũ ống
Đề tài “Xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ xảy ra lũ quét, lũ ống tỉnh Bình Định và đề xuất giải pháp phòng chống” (do tiến sĩ Trần Hữu Tuyên - Trường ĐH Khoa học Huế - làm Chủ nhiệm, với sự tham gia của các cộng sự khoa Địa lý - Địa chính Trường ĐH Quy Nhơn), vừa được Hội đồng Khoa học công nghệ tỉnh nghiệm thu, xếp loại khá. Kết quả của đề tài là cơ sở để tỉnh đề ra các giải pháp có tính khả thi cao trong công tác phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do lũ ống, lũ quét gây ra.
Nguy cơ lũ ống, lũ quét
Lũ quét, lũ ống là dạng thiên tai đặc thù xảy ra chủ yếu ở vùng đồi núi, trên các lưu vực nhỏ hoặc rất nhỏ, hoặc vùng đồng bằng trước núi - nơi có địa hình đồi núi xen kẽ với thung lũng, đồng bằng thấp. Loại lũ này thường là các trận lũ lớn được hình thành từ mưa với cường độ cao trong thời gian ngắn, sinh ra dòng chảy mặt tập trung lớn, rất nhanh, cuốn theo đất đá, cây cối, có sức tàn phá rất mạnh.
Theo phân tích của đề tài, tại Bình Định, hiện tượng lũ ống, lũ quét đã xảy ra và có nguy cơ xảy ra trên khắp các huyện, thị xã, thành phố. Toàn tỉnh có 19.587 ha thuộc vùng có nguy cơ rất cao, chiếm 3,2% diện tích; vùng nguy cơ cao 96.731 ha, chiếm 14,5% diện tích. Các huyện An Lão và Hoài Ân là những địa bàn chịu ảnh hưởng rất lớn của lũ quét (mỗi huyện gần 6.000 ha); Vân Canh (3.770 ha), Vĩnh Thạnh (1.692 ha), huyện Hoài Nhơn (673 ha)…
Hiện tượng lũ ống ở Bình Định được hình thành và phát triển do tác động tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau: lượng mưa, khả năng sinh lũ, độ ổn định sườn, khả năng tiêu thoát nước và độ bão hòa nước của đất, đá. Ở khu vực hạ lưu, nhóm nghiên cứu dùng phương pháp mô phỏng dòng chảy bằng mô hình MIKE nhằm đánh giá nguy cơ lũ ống trên các lưu vực sông Côn, Hà Thanh, Lại Giang và La Tinh. Kết quả phân vùng nguy cơ xảy ra lũ ống với tần suất 1% đã xác định các huyện Vân Canh, Tây Sơn, Hoài Ân, Tuy Phước và thị xã An Nhơn có diện tích nằm trong vùng nguy cơ cao, rất cao là lớn nhất. Với tần suất 5%, vùng nguy cơ có khả năng xảy ra lũ ống vẫn thuộc các huyện Tây Sơn, Vân Canh và thị xã An Nhơn.
Trên cơ sở bản đồ phân vùng nguy cơ xảy ra lũ quét, lũ ống, đề tài đã đánh giá mức độ rủi ro về dân cư, về cơ sở hạ tầng và các công trình giao thông trên địa bàn tỉnh. Theo đó, toàn tỉnh có 36 khu dân cư có mức độ rủi ro rất cao, chiếm 1,6% toàn tỉnh; 102 khu dân cư có mức độ rủi ro cao, chiếm 4,8%. Không chỉ các địa bàn miền núi, vùng đồng bằng trước núi, đồng bằng thấp, mà ngay tại TP Quy Nhơn, ở hạ lưu sông Côn - Hà Thanh, cùng với sự đô thị hóa mạnh mẽ, cũng nằm trong vùng có nguy cơ ngập lụt, lũ ống. TP Quy Nhơn có 4/16 phường có nguy cơ lũ ống, ngập lụt với khoảng 2.140 hộ dân. Bên cạnh đó, nhiều trường học, trạm y tế, chợ và cầu đường của tỉnh nằm trong diện bị ảnh hưởng và tác động mạnh của lũ ống, lũ quét.
Một số giải pháp
Tiến sĩ Trần Hữu Tuyên nhận định: “Các giải pháp phòng chống lũ ống, lũ quét mà chúng tôi đề xuất dựa trên nguyên tắc đảm bảo sự an toàn cho các khu dân cư, các công trình cơ sở hạ tầng, đồng thời đảm bảo yếu tố phát triển bền vững. Trước hết là xây dựng hệ thống cảnh báo lũ quét, lũ ống; tiếp đó là tăng cường công tác quan trắc, dự báo, cảnh báo sớm, chính xác thiên tai trên địa bàn tỉnh, nhất là công tác dự báo mưa, lũ đầu nguồn các sông lớn như sông Côn, Hà Thanh, Lại Giang”.
Bên cạnh di dời dân cư ra khỏi vùng nguy hiểm khi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, tiến sĩ Tuyên cho rằng, cấp thiết phải khai thông các đường thoát lũ bằng cách nạo vét mở rộng lòng dẫn, mở rộng cống thoát lũ, nắn dòng chảy; xây dựng và nâng cấp các hồ chứa nước để điều tiết lũ; nâng cấp, làm mới đường giao thông phục vụ cứu hộ, cứu nạn. Ở các khu vực thường xảy ra lũ quét như Vân Canh, An Lão cần xây dựng hồ chứa nước đa mục tiêu: chống lũ, phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát điện, kết hợp với việc điều hòa dòng chảy.
Ngoài ra, còn có các giải pháp định hướng quy hoạch, sử dụng lãnh thổ, như trồng và bảo vệ rừng, phủ trống đồi núi trọc, đặc biệt là rừng đặc dụng và phòng hộ đầu nguồn. Cần tích cực khôi phục rừng phòng hộ đầu nguồn, đặc biệt là các khu vực ở huyện An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh.
Ông Nguyễn Hữu Vui, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT: Đề tài nói trên là một trong những công cụ giúp xây dựng phương án phòng chống thiên tai, cũng như tổ chức phòng chống thiên tai, đặc biệt là lũ ống, lũ quét. Bản đồ nguy cơ lũ quét chỉ ra vùng có khả năng xuất hiện lũ quét với nguy cơ khác nhau, là một trong những công cụ tạo cơ sở lựa chọn và phối hợp các biện pháp phòng chống lũ quét. Nó còn phục vụ công tác phân vùng quản lý sử dụng đất; là tài liệu cơ bản thiết kế các công trình phòng chống lũ quét và cung cấp thông tin cảnh báo cho người dân.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Xuân, Phó Trưởng khoa Địa lý - Địa chính (Trường ĐH Quy Nhơn): Đề tài đã đưa ra giải pháp xây dựng hệ thống cảnh báo nguy cơ lũ quét, lũ ống rất thiết thực. Tính mới của đề tài là việc xây dựng chương trình cảnh báo nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, việc phân tách lũ ống và lũ quét khi nghiên cứu dòng chảy lũ. Tính sáng tạo thể hiện ở việc xác định được quy mô ảnh hưởng, số hộ, số dân từng khu vực cần di dời khỏi vùng nguy hiểm...
THU HIỀN