Kỳ họp thứ 10 HĐND tỉnh - Khóa XI:
Tìm giải pháp khắc phục hạn chế, thúc đẩy phát triển KT - XH
Trong buổi thảo luận tổ đầu tiên của kỳ họp, diễn ra vào chiều 8.12, các đại biểu (ĐB) HĐND tỉnh thảo luận về nội dung các báo cáo, tờ trình đã được trình bày tại hội trường trong phiên họp buổi sáng, trong đó tập trung tìm các giải pháp khắc phục những hạn chế để thúc đẩy phát triển KT - XH trong thời gian tới.
Kinh tế tăng trưởng ở mức cao
Nhiều ĐB nhận xét, trong bối cảnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nền kinh tế của tỉnh vẫn tiếp tục có mức tăng trưởng 9,34% là một sự nỗ lực lớn đáng ghi nhận, thể hiện quyết tâm cao của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân trong tỉnh. Trong đó, đáng chú ý là tăng trưởng của ngành nông nghiệp cao nhất từ trước tới nay; các lĩnh vực thương mại, dịch vụ có bước tăng trưởng ổn định, hợp lý; thu ngân sách đạt khá.
ĐB Hồ Quốc Dũng (Phù Cát), với tư cách là Chủ tịch UBND tỉnh, nhìn nhận: Đây là lần đầu tiên trong 3 năm qua, tổng sản phẩm địa phương tăng trưởng ở mức cao là 9,34%. Trong đó, sản lượng nông nghiệp đạt cao nhất từ trước đến nay, dù đầu năm một số nơi bị hạn hán. Về sản xuất công nghiệp, một số ngành như chế biến gỗ, đá tưởng chừng không thể phục hồi thì nay đang trên đà gượng dậy. Đặc biệt, Bình Định đang hình thành “thủ phủ” về sản xuất thức ăn chăn nuôi với hơn chục nhà máy, sản lượng đạt 1 triệu tấn/năm. ĐB Dũng phấn khởi thông báo thêm: “Các thương hiệu thức ăn chăn nuôi nổi tiếng của thế giới đều có ở Bình Định. Ngành công nghiệp may mặc cũng phát triển, hình thành nên các tổ hợp may mặc ở Hoài Nhơn, Phù Cát. Cả tỉnh có 13, 14 nhà máy may phủ đều các địa phương, trừ 3 huyện miền núi, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động. Năm nay, tỉnh ta cũng đón gần 2 triệu khách du lịch, một con số khá cao. Năm 2015, hy vọng lượng khách đến sẽ tiếp tục tăng hơn khi một số công trình văn hóa của tỉnh đang triển khai sẽ được đưa vào sử dụng”.
Tuy nhiên, các ĐB cũng băn khoăn về những tồn tại, khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế như: Kinh tế tăng trưởng nhưng chưa thật bền vững; sản xuất công nghiệp tăng trưởng chưa cao, một số ngành công nghiệp chế biến vẫn còn khó khăn; công tác xúc tiến đầu tư, nhất là vào các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế của tỉnh được quan tâm thực hiện nhưng kết quả còn hạn chế; một số dự án đăng ký đầu tư nhưng chậm triển khai thực hiện; giá bán nông sản còn bấp bênh, thiếu bền vững, ảnh hưởng đến thu nhập và đầu tư sản xuất của nông dân…
Phát triển nông nghiệp phải mang tính bền vững
Góp ý về tình hình phát triển KT- XH trong thời gian tới, các ĐB đã nêu nhiều ý kiến liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, tập trung vào giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ sản xuất lúa sang các loại cây trồng khác phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay; chuyển từ cánh đồng mẫu lớn sang cánh đồng liên kết, đồng thời cần có đề án, chính sách nghiên cứu bao tiêu nông sản, tránh tình trạng nông dân được mùa mất giá, được giá mất mùa, hay bị ép giá. Để phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, ĐB Cao Thứ (Hoài Ân) đề xuất: “Các ngành, các cấp cần xem xét lại cơ cấu ngành nông nghiệp hiện nay, từ đó có chính sách cải tạo đồng ruộng, quy hoạch vùng sản xuất lại cho phù hợp; đầu tư máy móc giảm bớt công lao động nhằm tăng năng suất; cần có chính sách hỗ trợ nông dân sản xuất trong tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay”.
ĐB Lê Thị Kim Mai (Hoài Nhơn) và ĐB Ngô Văn Công (Phù Mỹ) góp ý thêm: “Dù Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân trong quá trình sản xuất nhưng khi triển khai thực hiện có nhiều vướng mắc, hiệu quả mang lại không mong muốn. Đặc biệt là lĩnh vực giống lúa, chưa chủ động được nguồn giống lúa lai, giống chất lượng cao. Các đơn vị sản xuất lúa giống trên địa bàn tỉnh ít, trong khi đó các tỉnh khác đến Bình Định ký hợp đồng với nông dân sản xuất lúa giống rồi thu mua lại, do đó thiếu tính bền vững, giá cả thì bấp bênh”. Theo ĐB Võ Vinh Quang (An Nhơn), ngành nông nghiệp cần có chính sách để nâng cao chất lượng giống lúa, bởi năm nào năng suất lúa của tỉnh cũng cao nhưng chất lượng gạo thấp, người dân trong tỉnh phải mua gạo ở các tỉnh miền Nam hoặc gạo nhập từ các nước Thái Lan, Nhật Bản về dùng.
Tập trung cho công nghiệp và các dự án trọng điểm
Thực tế hiện nay, các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh hình thành nhiều, nhưng công tác kêu gọi đầu tư vào đây không phát huy hiệu quả. Điều đó đòi hỏi cần có chính sách phù hợp nhằm thu hút đầu tư, tránh tình trạng bỏ đất hoang, gây lãng phí cũng như xử lý đối với những trường hợp đầu tư không đúng với đăng ký. Nêu thực trạng trên, ĐB Đặng Thành Thái (Hoài Ân) ý kiến: “Cần xem xét ngành nghề cơ cấu kinh tế mang tính đột phá. Thực tế hiện nay, có những nơi, doanh nghiệp được giao đất trong nhiều năm liền nhưng không hề đầu tư. Điển hình như Khu kinh tế Nhơn Hội, được đầu tư cơ sở hạ tầng bài bản song lại không thu hút được nhà đầu tư, hoặc nếu có thì chủ yếu là tư lợi cá nhân, ví dụ doanh nghiệp đăng ký phát triển du lịch, nhưng thực chất là khai thác titan”.
ĐB Nguyễn Thanh Tùng (Quy Nhơn), Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, thông tin: Hiện nay, việc kêu gọi đầu tư vào Khu kinh tế Nhơn Hội đối với dự án lọc hóa dầu đã qua giai đoạn thẩm định và hiện chờ ý kiến của Thủ tướng Chính phủ và sẽ sớm được triển khai. Đối với khu du lịch Vinpearl Hải Giang mà tập đoàn Vingroup đầu tư, trước mắt sẽ tập trung làm khách sạn, sân golf, sau đó là cáp treo. Tháng 1.2015, sẽ khởi công xây dựng mở rộng sân bay Phù Cát.
ĐB Tôn Thất Thảo (Hoài Nhơn), ĐB Nguyễn Thị Đàng (Phù Mỹ) và nhiều ĐB khác cho rằng: Việc triển khai đầu tư xây dựng, mở rộng các tuyến QL1A, 19, 1D… gặp nhiều vướng mắc, bất cập trong công tác đền bù giải tỏa dẫn đến các dự án kéo dài, đề nghị tỉnh tập trung chỉ đạo khắc phục để đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa các dự án vào sử dụng để phát triển KT-XH của tỉnh.
Băn khoăn điều chỉnh giá bán nước máy
Trong Tờ trình đề nghị điều chỉnh giá bán nước máy cho các đối tượng trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 2015-2020, UBND tỉnh đề nghị HĐND tỉnh xem xét, thống nhất điều chỉnh giá bán nước máy năm 2015 tăng 20% so với giá bình quân năm 2014, từ năm 2016 -2020 sẽ tăng theo lộ trình. Trường hợp chi phí đầu vào giai đoạn 2015-2020 có sự biến động (tăng, giảm) từ 20% thì đề nghị HĐND thống nhất cơ chế giao UBND tỉnh xem xét, quyết định điều chỉnh (tăng, giảm) giá bán nước máy cho phù hợp.
Trong đó, giá bán cho các đối tượng hộ nghèo và đồng bào dân tộc ở khu vực Quy Nhơn mỗi năm tăng 300 đồng/m3, ở khu vực 9 thị trấn mỗi năm tăng 200 đồng/m3. Giá bán bình quân từ năm 2016 trở đi (trong điều kiện bình thường) năm sau cao hơn năm trước 6,5%. Riêng giá nước áp dụng cho đối tượng kinh doanh dịch vụ khu vực Quy Nhơn trong cả giai đoạn 2015-2020 vẫn giữ nguyên mức giá như năm 2014.
ĐB Trần Văn Trương (Tuy Phước) thắc mắc: “Tăng 20% là so với giá nước bình quân hay là đối với từng loại đối tượng?”. ĐB Phạm Hồng Sơn (Quy Nhơn) cũng cho rằng nên có lộ trình tăng giá nước một lần, không nên năm nào cũng tăng giá vì người dân sẽ không thích và thắc mắc sao năm nào cũng điều chỉnh. Trong khi đó, ĐB Nguyễn Minh Phụng (Phù Cát) không đồng tình việc tăng giá nước. Lý do là chất lượng dịch vụ cung cấp nước quá tệ. Đơn cử như ở thị trấn Ngô Mây (Phù Cát), người dân đóng 2,5 triệu đồng/hộ để mắc đồng hồ nước nhưng chất lượng nước kém, nước chảy nhỏ giọt, người dân phải canh hứng nước cả đêm. Không đủ nước máy sử dụng, nhiều hộ dân phải tốn kém cả chục triệu đồng để làm giếng đóng.
Ông Lê Hoàng Nghi, Giám đốc Sở Tài chính, giải thích giá nước bình quân 2015 được tính bằng giá nước bình quân của từng đối tượng năm 2014 nhân với sản lượng của từng đối tượng sử dụng và chia bình quân. Việc tăng giá nước chủ yếu tập trung vào nhóm đối tượng sử dụng từ 20m3/tháng trở lên vì đây là nhóm có điều kiện kinh tế hơn, tương đương như cách tính giá điện. Riêng đối với đối tượng kinh doanh dịch vụ khu vực Quy Nhơn vẫn sẽ áp dụng mức giá năm 2014 trong cả giai đoạn 2015-2020 vì mức giá đang được tính hiện nay vẫn ở mức khá cao. Ông Nghi cũng đồng tình với ý kiến của ĐB Phạm Hồng Sơn là không nên tăng giá nước nhiều lần.
NHÓM PV XÂY DỰNG ĐẢNG - NỘI CHÍNH