Câu lươn đồng
Vào thời điểm này, khi những người nông dân ở xã Bình Tường (huyện Tây Sơn) đang tất bật làm đất để chuẩn bị xuống giống vụ lúa Đông Xuân thì cũng là thời điểm mùa câu lươn ở đây bắt đầu. Hình ảnh những con lươn vàng ươm, béo núc mắc vào lưỡi câu và nồi cháo lươn thơm nức mùi nghệ luôn có sức hấp dẫn vào những ngày đông lạnh nên công việc này thu hút rất nhiều người tham gia, từ người lớn cho tới trẻ con.
Theo những người hay đi câu lươn thì thời điểm đi câu tốt nhất là vào sáng sớm hoặc chiều muộn, bởi lúc ấy con lươn đói nên chúng rất dễ đớp mồi câu.
Khoảng 4 giờ chiều, lúc tôi vừa tới nhà thì cũng là lúc anh Đoàn Văn Thi, ở xóm 7, thôn Hòa Trung, xã Bình Tường cùng một người bạn đang chuẩn bị đi câu lươn. Anh Thi cười: “Vừa mới đi làm đồng về, hai anh em tui tranh thủ chạy lấy “bộ đồ nghề” ra ruộng kiếm vài chú lươn, tối về làm nồi cháo cho ấm bụng”.
“Bộ đồ nghề” mà anh Thi nói đến cũng hết sức đơn giản, chỉ có một sợi dây cước được se lại có cột lưỡi câu phía trước, một bịch đựng mồi câu là những con giun đất và một chiếc túi để đựng lươn. Theo anh Thi, câu lươn quan trọng nhất là phải biết làm lưỡi câu. Người đi câu thường phải tự chế lấy lưỡi câu, bằng cách tìm những cọng thép trong các dây cáp của các xe cẩu, xe tải, để uốn thành lưỡi câu. Bởi khác với lưỡi câu cá, lưỡi câu lươn không có ngạnh và phải có độ cứng của thép để khi lươn đã cắn câu thì kéo ra khỏi hang mới khỏi bị tuột.
Trên đường dẫn tôi ra đồng câu lươn, anh Thi giải thích: “Lươn thường đào hang rất đa dạng, ở hầu hết mọi nơi trên thửa ruộng, tùy thuộc vào đất nơi chúng trú ẩn. Có nơi chúng đào nhiều lỗ, có khi đào hai lỗ. Nếu hai lỗ thì dễ biết lắm, lỗ to là hướng của đầu lươn, lỗ nhỏ là hướng đuôi lươn, muốn biết lươn to hay nhỏ chỉ cần nhìn vào miệng lỗ là biết”. Vừa nói xong thì anh cũng tìm ra một hang lươn dưới ruộng, ngay sát bờ. Anh Thi cố đút sợi dây câu đã mắc mồi sẵn vào một lỗ hang nhỏ, vừa đưa vào vừa xoay tay khiến lớp bùn bở ra, miệng hang ngày càng to. Đột nhiên, nước sủi bọt rồi trào lên, một chú lươn đang bò lên đớp mồi. Khi đã ngậm mồi vào miệng, chú lươn thụt lại vô hang, kéo căng sợi cước của anh Thi đang cầm trên tay. Anh bạn đi cùng thì thầm: “Đây là giây phút quan trọng nhất, được lươn hay không là lúc này đây. Bởi vì lưỡi câu lươn không có ngạnh để giữ lươn như lưỡi câu cá, nên chỉ cần nới lỏng sợi dây một chút là lươn xổng mất, có khi lươn trật ra ngay trên hang, cố gắng chụp nhưng da lươn trơn như bôi mỡ, đành đi tìm hang khác”. Sau hơn hai phút “chiến đấu”, cuối cùng thì chú lươn cũng chịu khuất phục anh Thi.
Bạn anh Thi cho hay, người dân ở đây câu lươn chủ yếu về ăn, chỉ khi nào “trúng” lắm ăn không hết mới bán, bởi vì nếu để lâu con lươn sẽ ốm, ăn kém ngon.
Sau hơn một tiếng rưỡi đồng hồ “quần thảo” hết cánh đồng, chúng tôi cũng có được thành quả là 6 chú lươn trong túi, đủ để có một nồi cháo. Trên đường về, anh Thi kể: “Trước đây lươn nhiều lắm, người nào siêng đi câu thì ngày được cả ký lươn là chuyện bình thường. Nhưng nay do người dân làm ruộng sử dụng nhiều thuốc trừ sâu, trừ cỏ nên lươn không còn dồi dào như trước nữa”.
XUÂN NHÂM