Đời lái đò ở cảng cá Quy Nhơn
Ở cảng cá Quy Nhơn (phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn) - nơi mỗi ngày có hàng trăm chiếc tàu công suất lớn thay nhau cập cảng bốc dỡ cá, lấy “tổn” vươn khơi bám biển - nhiều năm qua, vẫn tồn tại những con đò chòng chành, nhỏ bé với gánh nặng mưu sinh.
Đò trên biển
Chẳng ai ở bến cá Quy Nhơn còn nhớ những chiếc đò ngang xuất hiện lúc nào. Chỉ biết, bao nhiêu năm qua, giữa sóng, gió, những con đò bé tí teo vẫn lặng lẽ đưa người lên tàu, vào bờ. Hơn chục con đò tập trung lại với nhau tạo nên một xóm đò, một bến đò nhỏ giữa cảng cá tấp nập, sầm uất.
Người gắn bó với bến đò ở cảng cá Quy Nhơn lâu năm nhất là ông Đinh Liên (63 tuổi, ở thôn Vinh Quang 2, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước). 37 năm trước, ông bơi thuyền, vượt đầm Thị Nại rồi “tạm trú” tại cảng. Từ đó đến nay, ông chọn cuộc sống ăn ngủ ở bến đò để mưu sinh. Cứ cách vài ba ngày, ông lại lên xe buýt, về nhà, thăm vợ con rồi sáng hôm sau vội vã xuống bến. Người ở cảng cá chẳng ai là không biết ông lái đò già gầy guộc, đen sạm vì nắng và muối biển ấy.
Neo đò cho khách lên bờ xong, ông Liên vội đưa tay quệt những giọt mồ hôi nhễ nhại, rồi cũng bước lên bờ đi mua chai nước suối và gói thuốc lá rồi ngồi chờ đến lượt đò mình chở khách. Ông nói: “Ở đây, dân chèo đò phân chia rõ ràng để khỏi mất lòng nhau. Giống như xếp hàng mua vé vậy, đò của ai đến trước tại bến thì sẽ được đón khách trước. Bến đò có hơn 20 con đò. Cứ theo thứ tự lượt về bến mà xoay vòng”.
Một lượt chèo, người lái đò được trả 5.000 đồng/người. Người nào đến lượt chèo đò mà có nhiều khách thì khoản thu có phần kha khá hơn. Trung bình mỗi người chèo đò kiếm được từ 70 đến 100 ngàn đồng/ngày. Những ngày mở biển, số người ra vào nhiều, người chèo đò kiếm được khoản thu nhập cao hơn đôi chút.
Không chỉ hoạt động ban ngày, đêm đến, bến đò vẫn không thiếu tay chèo. Nhưng số người làm việc tại buổi đêm có phần ít ỏi hơn. Ông Liên, người có nhà ở xa cảng nhất, tiếp tục là người chèo đò đêm nhiều nhất ở cảng cá. Không thuê nhà trọ, ông chọn ngủ tại đò. Bao nhiêu năm qua, giấc ngủ của ông chòng chành trên sóng.
“Tôi ngủ trên thuyền với một cái mền khi không có người gọi đò. Nếu trời mưa, tôi sẽ lên ghe đang đậu ở cảng mà trú nhờ. Nhờ trời và cũng nhờ biển, tôi hầu như chẳng mấy đau ốm để có thể làm việc mỗi ngày và nuôi gia đình”, ông Liên lạc quan kể về công việc gắn liền với sóng, gió của mình.
Những cô lái đò
Trong số hơn 20 người lái đò ở cảng Quy Nhơn, chỉ có 3 người là đàn ông, còn lại là phụ nữ. Không đẹp và lãng mạn như trong thơ, nhạc, những người phụ nữ chèo đò vất vả giữa ngược xuôi con sóng. Giấu đi vẻ mềm yếu, cô lái đò khoác lên mình lớp quần áo “dày cộp”, phơi người trong nắng gió để có được khoản thu nhập, chăm lo cho gia đình.
Nói về những vất vả, hiểm nguy của nghề, cô lái đò Nguyễn Thị Kim Loan, 33 tuổi, ở khu vực 9, phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn, hóm hỉnh đúc kết: “Chị em tôi ngày nào cũng tập thể dục bằng bơi, chèo cả. Giờ, đôi tay khỏe là niềm tự hào của chúng tôi. Nắng gió trên biển luyện con người vẻ cứng cáp nhưng cũng lấy đi nhan sắc và tuổi xuân. Mình khỏe đấy nhưng cằn cỗi, khô ráp lắm!”.
Số đông các cô, chị lái đò ở cảng cá Quy Nhơn đều ở Hải Minh (tức khu vực 9, phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn). Mỗi ngày, họ giong đò vượt gần 1 cây số để về với cảng Quy Nhơn bằng chính sức của đôi tay. Rồi cũng bằng đôi tay ấy, cô lái đò tiếp tục hành trình đưa khách ra, vào bờ. Đến tối mịt, cô lại dốc hết sức cho những nhịp chèo cuối ngày, trở về nhà. Vất vả. Rệu rã. Đau nhức. Tất cả những dấu hiệu ấy lặp đi lặp lại mỗi ngày, mỗi tháng. Để rồi bây giờ, đơn vị đo đếm hành trình của họ đã là năm. Cô lái đò ít tuổi nghề nhất ở cảng cá là 10 năm. Người dày dặn gió sương hơn đã lên đến 23 năm.
Hơn hai chục năm đưa đò, bà Nguyễn Thị Phương, 52 tuổi, ở khu vực 9, phường Hải Cảng, đặc tả công việc của mình bằng một chữ “Khổ!”. Tựa tay lên mái chèo, bà tâm sự: “Nhà có 4 đứa con. Mỗi ngày đi chèo đò về, đứa thì xin mẹ tiền mua bút, thước; đứa lại xin tiền học... Rồi thì bữa cơm hàng ngày, thuốc thang khi chồng và con đau ốm, tiền lễ nghĩa, rồi dựng vợ gả chồng cho con..., đều nhờ cái bến đò này mà ra. Vậy nên, nhiều lúc, chị em tôi tặc lưỡi: Khổ thì kệ! Xấu cũng kệ! Miễn sao lo cho gia đình được no cái bụng, con cái được học hành đến nơi đến chốn”.
NGUYỄN MUỘI
Thương thay cho họ, nhất là thân phụ nữ. Mong chính quyền hay nhà hảo tâm sẽ giúp đỡ họ, dù chỉ một chút cũng sưởi ấm được lòng người.
Đọc bài thấy thương những người chèo đò lam lũ, chịu khó nhưng cũng thấy lo khi cả người chèo đò lẫn hành khách không có bất kỳ một phương tiện cứu sinh nào như áo phao hay phao trong lúc lênh đênh giữa biển mênh mông trên con thuyền bé xíu như chiếc lá tre. Dẫu biết người chèo đò là những lao động nghèo, vất vả mưu sinh nhưng thiết nghĩ họ cũng cần trang bị phương tiện cứu sinh tối thiểu, xem đấy là trách nhiệm, là cái tâm của mình đối với khách hàng và đối với cái nghề mà mình dựa vào đó để kiếm sống. Khách hàng đi đò cũng cần có ý thức tự bảo vệ tính mạng của mình bằng cách mặc áo phao. Ngộ nhỡ tai nạn xảy ra, có hối tiếc cũng muộn màng.