Lặng lẽ Krông Bung
Dòng Krông Bung mềm mại và thủy chung, chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử một vùng đất lắm đau thương và nhiều chiến công hiển hách.
Người Bana ở Vĩnh Thạnh gọi sông Kôn bằng cái tên mang đậm chất núi rừng - Đak Krông Bung. Họ giải thích, phía đầu nguồn, trên núi cao gọi là Tu Krông tức là nguồn sông Krông, sông chảy qua những vùng thấp gọi là Đak, khi bắt đầu đổ vào đồng bằng được gọi là Đak Krông Bung. Dòng Krông Bung uốn khúc qua thác ghềnh, lúc hiền hòa trong mát nên thơ, lúc hung dữ sóng trào cuồn cuộn. Nhưng Krông Bung tựu trung vẫn là dòng sông nhỏ nhắn có nguồn nước trong suốt chảy qua huyện Vĩnh Thạnh một cách lặng lẽ và bình yên. Không phải vì núi ở đây không cao, đất ở đây không dốc, mà vì Krông Bung “khôn” - như người ở đây thường nói. Sông biết tránh những nơi cần tránh, đi những nơi cần đi và đến những nơi cần đến.
Krông Bung không chỉ là dòng chảy tự nhiên, mà còn là dòng sông văn hoá đi vào tâm thức người dân nơi đây. Ở đó, nơi đầu nguồn sông, xứ sở của thành Tà Kơn, của núi Nguyễn Huệ huyền thoại, của những bản hơamon dài suốt đời người. Krông Bung “khôn” còn vì không bao giờ chịu xa làng, xa bản, xa những người dân cần mẫn lao động, gắn bó trong nghĩa xóm tình làng. Krông Bung mềm mại và thủy chung chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử một vùng đất lắm đau thương và nhiều chiến công hiển hách.
Thế kỷ 18, Vĩnh Thạnh là một phần của Tây Sơn thượng đạo, đã góp sức người, sức của cho khởi nghĩa thành công, làm nên những chiến công hiển hách. Thời Quang Trung - Nguyễn Huệ, những chiến binh vùng Tây Sơn thượng đạo mài dao, rèn mác, luyện voi chuẩn bị cướp phủ Quy Nhơn, mở đầu cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại chống thù trong giặc ngoài, thống nhất giang sơn về một mối, khẳng định quyền tự chủ của dân tộc. Giai đoạn Tây Sơn thoái trào, cũng chính nhân dân Vĩnh Thạnh giang tay đùm bọc, nuôi nấng, che chở cho một số tướng lĩnh và nghĩa quân thoát khỏi sự trừng phạt của nhà Nguyễn. Những di tích: Vườn cam Nguyễn Huệ, khẩu đại bác của nghĩa quân Tây Sơn (đã đưa về Bảo tàng Quang Trung) được đồng bào Vĩnh Sơn giữ hơn 100 năm; rồi truyền thuyết về Chúa Xà Đàng và bầy ngựa rừng… là những minh chứng cho ân nghĩa Vĩnh Thạnh của thời kỳ oanh liệt đó.
Thế kỷ 19, hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp, dưới cờ khởi nghĩa của Bình Tây đại nguyên soái Mai Xuân Thưởng, Vĩnh Thạnh là nơi rèn đúc vũ khí, sản xuất lương thực, thực phẩm cung cấp cho nghĩa quân. Dấu tích Gò Thứ, thác Bà Năm Đá (đoạn sông chảy qua xã Vĩnh Thịnh); gương những người phụ nữ làm hậu cần giỏi như bà Đỗ Thị Lài, bà Năm Đá còn truyền tụng trong dân gian đến ngày nay. Dòng Krông Bung lặng lẽ chứng kiến hết những đau thương hào hùng của đất và người Vĩnh Thạnh.
Thời 9 năm kháng chiến (1945-1954), khi giặc Pháp chiếm Tây Nguyên, Vĩnh Thạnh - Bình Khê trở thành tiền đồn phía tây nam tỉnh Bình Định, đã lập ra chiến lũy "Tam Bình" nổi tiếng, hậu cứ vững chắc của lực lượng kháng chiến An Khê - Gia Lai. Cả ngày đêm, từ các căn cứ Cửu An, Tú Thủy đại bác của Pháp bắn xuống Vĩnh Thạnh như mưa. Không ít xác người chết đói chết rét, không ít người vô tội bị bắn giết dã man rồi thả trôi trên dòng sông này. Nhưng nhân dân Vĩnh Thạnh vẫn kiên cường dũng cảm, chịu đựng mọi hy sinh gian khổ, đánh giặc giữ làng và chi viện mọi mặt cho tiền phương. Hai mươi năm đánh Mỹ, Vĩnh Thạnh ở vào vùng chiến lược đặc biệt - vừa là vùng căn cứ vũ trang cách mạng vừa là vùng giáp ranh cài răng lược giữa ta và địch. Chất độc màu da cam, bom B52 của giặc Mỹ trút xuống Krông Bung, những bộ xương rừng trơ trụi nhòa trong lửa khói in bóng xuống dòng sông...
Trong thế "ngày địch, đêm ta", nhân dân Vĩnh Thạnh một lúc làm các nhiệm vụ nuôi nấng, bảo vệ lực lượng cách mạng, đấu tranh bảo vệ xóm làng không cho địch chiếm đất bắt người, dồn dân lập ấp. Rồi cũng từ những gộp đá suối Đak Ló, từ những gốc cây cổ thụ ở Đak Lá, bóng những cán bộ cách mạng, những chiến sĩ giải phóng, những du kích Bana bám đất bám dân, lặng lẽ và kiên nhẫn nhen nhóm ngọn lửa cách mạng để ngày 6.2.1959 bùng lên thành cuộc khởi nghĩa Vĩnh Thạnh lịch sử.
Khởi nghĩa Vĩnh Thạnh được xem là cuộc khởi nghĩa từng phần đầu tiên của phong trào đồng khởi ở Quân khu 5. Năm 1972, Vĩnh Thạnh được giải phóng hoàn toàn. Năm 1975, nước nhà độc lập thống nhất, Vĩnh Thạnh là một trong những địa phương đầu tiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lượng vũ trang.
Sau ngày giải phóng, nhân dân Vĩnh Thạnh bắt tay vào xây dựng quê hương từ hai bàn tay trắng với hành trang là sự lãnh đạo của Đảng và truyền thống nhân dân cần cù lao động, yêu chuộng hòa bình. 40 năm phấn đấu không ngừng nghỉ, vùng đất bên dòng Krông Bung đã khởi sắc. Kết quả của công cuộc khai hoang phục hóa là diện tích canh tác; năng suất cây trồng, vật nuôi tăng cao dần. Cây lúa nước được đầu tư thâm canh. Các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, mía, mì, đậu phát triển. Người dân đã biết đầu tư chăn nuôi bò lai, nuôi cá nước ngọt.
Công cuộc xây dựng và kiến thiết rộ lên khắp nơi. Đak Krông Bung tiếp tục hòa vào dòng chảy của thời đại với những công trình thủy điện, thủy lợi lớn. Nhà máy Thuỷ điện Vĩnh Sơn hoạt động trên cơ sở khai thác nguồn nước của dòng Krông Bung và các nhánh của nó là Đak Phan và Đak Segnan thuộc địa bàn xã Vĩnh Sơn. Đây cũng là nhà máy thuỷ điện có quy mô lớn đầu tiên ở miền Trung và Tây Nguyên vào thập niên cuối thế kỷ hai mươi, với công suất 66 MW và sản lượng điện bình quân hằng năm 230 triệu KWh.
Với Thuỷ điện Vĩnh Sơn, "vàng trắng" của Đak Krông Bung đã thực sự trở thành dòng điện năng góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Bình Định và cả khu vực miền Trung. Đặc biệt, nguồn điện năng đã góp phần làm thay đổi bộ mặt cơ sở hạ tầng cho các xã vùng thượng nguồn Krông Bung ở Vĩnh Thạnh. Ngay như xã Vĩnh Sơn, đến nay đã có 100% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, 90% số hộ có phương tiện nghe nhìn. Với xã Vĩnh Kim, 5/6 làng đã có điện. Dòng Krông Bung mang ánh điện về, người dân vùng cao đã có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc cũng ngày càng mở mang hơn nhờ được tiếp cận các phương tiện nghe nhìn hiện đại.
Hàng loạt các dự án sẽ tiếp tục khai thác "vàng trắng" của Krông Bung do Công ty cổ phần Thuỷ điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh và Công ty Cổ phần Đầu tư Vĩnh Sơn thực hiện. Theo các đơn vị đầu tư, Thuỷ điện Vĩnh Sơn 3 có công suất 32MW, sản lượng điện hàng năm 102 triệu KWh. Thuỷ điện Vĩnh Sơn 4 có công suất 18MW, sản lượng điện hàng năm 72 triệu KWh. Thuỷ điện Vĩnh Sơn 5 có công suất 28MW, sản lượng điện hàng năm 98 triệu KWh. Còn Nhà máy Thuỷ điện Định Bình (xã Vĩnh Hiệp và Vĩnh Hảo), công suất 6,6 MW, sản lượng điện hàng năm 32 triệu KWh. Cùng với các nhà máy thuỷ điện trên, còn có hàng loạt các nhà máy thuỷ điện khác cũng đã và đang được xây dựng: Nhà máy Thuỷ điện Đăk Ple (Vĩnh Sơn) công suất 3,2 MW; Nhà máy Thuỷ điện Ken Lút Hạ (xã Vĩnh Hảo), công suất 6MW...
Năm 2008, hồ Định Bình nằm ở đầu nguồn Krông Bung trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh được xây dựng hoàn thành với dung tích 226 triệu m3 nước. Đập Định Bình vắt ngang Krông Bung trên địa phận hai xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo đã trở thành một trong những biểu tượng trong công cuộc đổi mới ở vùng cao Vĩnh Thạnh. Đây là công trình “đại thủy nông” lớn nhất cả tỉnh, nguồn nước từ hồ Định Bình mang phù sa Đak Krông Bung tắm tưới cho biết bao nhiêu cánh đồng khô hạn, đem thêm màu xanh cho những thửa đất bạc màu.
Cứ nhìn dải mây trắng xốp rồng rắn trườn qua các sườn núi, ta biết Krông Bung đang ở đâu, khúc nào rộng, khúc nào hẹp, quãng nào nông, quãng nào sâu… Nó cứ kéo tấm chăn ấm áp đó tiến dần về xuôi, mang theo bao niềm thương nỗi nhớ bởi biết rằng khi ra khỏi địa phận Vĩnh Thạnh, nó không còn được sự che chở của rừng già, không được sưởi bằng hơi ấm của núi, không còn được nghe tiếng chinh chiêng dội thúc vào lòng cái âm hưởng của ngàn đời sâu lắng, không được nghe tiếng già làng đêm đêm hát kể về những người anh hùng Bana có công dựng làng giữ nước, không được nghe tiếng đàn Hđâng, Kơní nỉ non tình tự, không được những đôi chân tròn sơn nữ nhẹ khua trong đêm trăng tĩnh lặng…
Nhiều người sinh ra và lớn lên trên đất Vĩnh Thạnh, khi đi xa trở về đều ngạc nhiên về sự tiến bộ của huyện nhà. Vâng sự đổi thay ở đây không đến mức chóng mặt như nhiều nơi khác nhưng vẫn là đổi thay từng ngày. Điện, đường, trường, trạm đã có đủ; cái đói, cái đau không còn đáng sợ; nhà cửa đã khang trang chắc chắn; bữa cơm của hầu hết các gia đình đã có cá, có thịt; trẻ em ở làng O5 không phải bỏ học vì đã có cầu, có đường; điện mặt trời đã bừng sáng làng O2 heo hút; đường liên thôn liên xã từng bước được bê tông hóa. Đời sống người dân bên dòng Krông Bung không ngừng được cải thiện. Bình quân thu nhập đầu người đạt 16,7 triệu đồng/năm. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng cây công nghiệp, rau quả, chăn nuôi.
Khai thác tiềm năng, lợi thế ven sông, có tỉnh lộ ĐT 637 chạy qua, Vĩnh Thạnh đã tiến hành khai thác cát, sỏi, sản xuất vật liệu xây dựng; mở mang nghề phụ: xay xát, máy xẻ, cơ khí, thợ mộc, thợ xây, vận tải, dịch vụ thương mại, buôn bán nhỏ… Cụm công nghiệp Tà Súc đã bước đầu đi vào hoạt động mở ra nhiều ngành nghề, giúp giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động của huyện, góp phần không nhỏ cho kinh tế nông thôn.
Lặng lẽ Krông Bung. Cái lặng lẽ của những con người kiên định, chững chạc, biết làm chủ mình, biết chiến đấu và biết chiến thắng!
XUÂN DŨNG