Phát huy thành quả điều trị bệnh lý tim mạch
Gần đây, lĩnh vực nội tim mạch ở BVĐK tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia đầu ngành, để phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu của người bệnh, Bệnh viện cần phát triển theo hướng chuyên sâu các lĩnh vực của nội tim mạch.
Những bước tiến vững chắc
Tôi gặp lại cụ bà Lê Thị Đồn gần 1 tháng sau ca rút dây điện cực khỏi tim được thực hiện tại BVĐK tỉnh. 91 tuổi, bà một mình bắt xe buýt từ Hoài Phú (Hoài Nhơn) vào Quy Nhơn tái khám. Bà móm mém cười: “Con bận làm, cháu bận học, tui thấy khỏe nên tự đi luôn. Nhưng mà, nếu không rút được cái dây đó ra, chắc gì tui được như vầy. Hồi đó, suốt ngày cứ khó thở, ngực thì tức lắm”.
Một ca can thiệp mạch vành được thực hiện tại BVĐK tỉnh.
Sợi dây mà bà Đồn nói đến là dây điện cực cũ nằm trong buồng tim bên trái, cắm sâu vào vách liên thất. Cả tháng trời bà vạ vật ở Huế, với hy vọng được sớm rút cái dây đó ra khỏi ngực. 4 lần được thông báo sửa soạn để chuẩn bị can thiệp là 4 lần bà tiu nghỉu khi biết vẫn phải… chờ. Gần Tết, mỏi mòn, thất vọng, mẹ con bà quay về, mặc rủi may. Rồi một ngày đầu tháng 3, bà lại tìm đến BVĐK tỉnh, và các bác sĩ quyết định thực hiện can thiệp để rút dây điện cực - kỹ thuật lần đầu tiên được triển khai tại đây.
Phó trưởng khoa Nội Tim mạch Phan Nam Hùng chia sẻ, thật khó diễn tả được niềm vui khi tự tay rút sợi dây điện cực ra khỏi cơ thể bệnh nhân Đồn, bởi đưa dây vào người đã khó, nhưng rút ra càng khó hơn. Thành công này nối tiếp những bước tiến vững chắc trên lĩnh vực nhịp học. Từ năm 2009 đến nay, khoa Nội Tim mạch đã triển khai trên 290 trường hợp đặt máy tạo nhịp tạm thời, máy tạo nhịp vĩnh viễn một buồng, máy tạo nhịp 2 buồng tái đồng bộ cơ tim, thăm dò điện sinh lý chức năng nút xoang và nút nhĩ thất, cắt cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất bằng kích nhĩ vượt tần số, shock điện chuyển nhịp, đặt máy phá rung (ICD)… Đặc biệt, đã thực hiện thành công nhiều trường hợp đặt máy tạo nhịp 2 buồng tái đồng bộ cơ tim.
Trong khi đó, lĩnh vực can thiệp mạch vành cũng thu được nhiều thành quả đáng kể. Từ vài ca lẻ tẻ năm 2010, đến năm 2013 và 2014, mỗi năm có đến gần 400 ca can thiệp với các mặt bệnh như tổn thương động mạch vành mãn tính, tổn thương động mạch vành chỗ chia đôi… Theo Phó trưởng khoa Nội Tim mạch Nguyễn Minh Toàn, tỉ lệ thành công trong đặt stent động mạch vành không dưới 98%.
“Nếu có điều kiện phát triển sâu hơn, chúng tôi sẽ triển khai nong van 2 lá bằng bóng, đóng lỗ thông liên nhĩ, đóng ống động mạch bằng dụng cụ…”, bác sĩ Toàn cho hay.
Cần phát triển chuyên sâu
Sự phát triển của lĩnh vực Nội Tim mạch ở BVĐK tỉnh có nền tảng vững chắc, bởi sự đều tay của cả 2 ê-kíp can thiệp mạch vành và điều trị rối loạn nhịp. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ đắc lực của máy chụp mạch máu số hóa xóa nền (DSA) - thiết bị hiện đại trị giá 21 tỉ đồng được trang bị từ năm 2010. Tuy nhiên, để đạt được những bước tiến cao hơn nữa, đòi hỏi phải có sự đầu tư phát triển chuyên sâu.
Theo GS.TS Trần Thống, giảng viên Trường ĐH Oregon (Hoa Kỳ) - chuyên gia hàng đầu trên lĩnh vực Nội Tim mạch, phân chia khoa Nội Tim mạch ra làm hai mảng can thiệp mạch vành và nhịp học là một diễn biến tự nhiên và đã được áp dụng thành công ở nhiều bệnh viện ở Việt Nam và trên thế giới. Khi đã phân chia, mảng nhịp học có thể có những điều dưỡng được huấn luyện theo dõi bệnh nhân qua điện tâm đồ và nhìn ra những biểu hiện rối loạn nhịp để có thể báo bác sĩ kịp thời. Sự huấn luyện này không cần thiết cho điều dưỡng chăm lo cho bệnh nhân đặt stent.
Không dừng lại ở đó, để phát triển nhịp học, cần có một ê-kíp bác sĩ làm việc chung trong các ca cấy máy phức tạp, như máy tạo nhịp hay phá rung 3 buồng, và cũng cần bác sĩ phụ trách theo dõi, kiểm tra các bệnh nhân. Khác với bên mạch vành, cấy một máy vào cơ thể bệnh nhân chỉ là bước đầu trong hành trình 10-15 năm điều trị, bác sĩ cần theo dõi bệnh nhân trong suốt thời gian này.
“Với khoảng 40-50 máy tạo nhịp 1 và 2 buồng được cấy trong năm 2014, BVĐK tỉnh Bình Định đã vào Top 10 trong số 50 bệnh viện cấy được máy ở Việt Nam. Đây là một thành quả rất đáng tuyên dương, phản ảnh tinh thần phục vụ bệnh nhân tim mạch ở mức rất cao”.
GS.TS TRẦN THỐNG, giảng viên Trường ĐH Oregon (Hoa Kỳ)
“Kỹ thuật điều trị nhịp tim thay đổi rất nhanh. Cách đây 5 năm, bác sĩ điều trị rối loạn nhịp không hề quan tâm đến việc bệnh nhân phải chụp MRI (cộng hưởng từ). Nhưng hiện nay, đây là quan tâm lớn của các bác sĩ nhịp học, vì chọn sai máy có thể là bản án chung thân cho bệnh nhân, bởi họ không thể sử dụng MRI - kỹ thuật chẩn đoán không xâm nhập hàng đầu”, GS Thống phân tích.
Đó cũng là quan điểm của PGS.TS Phạm Nguyễn Vinh, Phó Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam, Giám đốc chuyên môn Bệnh viện Tim Tâm Đức. “Nhịp học và tim mạch can thiệp là 2 chuyên khoa sâu riêng biệt. Việc chia tách 2 mảng chuyên sâu của Nội Tim mạch không đơn giản là theo trào lưu, mà thật sự có ích để tiến sâu hơn trong nghiên cứu và điều trị từng mặt bệnh”, PGS Vinh khẳng định.
Theo Giám đốc BVĐK tỉnh Hồ Việt Mỹ, cuối năm 2015, BVĐK tỉnh sẽ có thêm một máy DSA, đồng thời tuyển thêm bác sĩ, cho đào tạo chuyên sâu trên lĩnh vực Nội Tim mạch. “Đó là những bước đi cần thiết để Bệnh viện có thể phát triển theo hướng chuyên sâu cả 2 mảng can thiệp mạch vành và nhịp học”, bác sĩ Hồ Việt Mỹ chia sẻ.
NGUYỄN VĂN TRANG