Thực hiện các chính sách dân tộc:
Giúp đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững
Thời gian qua, tỉnh ta đã tích cực triển khai thực hiện các chính sách dân tộc (CSDT), tạo tiền đề phát triển KT-XH các vùng đồng bào dân tộc thiểu số (ĐBDTTS). Nhờ vậy, diện mạo nông thôn miền núi, vùng khó khăn trên địa bàn tỉnh có nhiều đổi thay, đời sống người dân được cải thiện, tỉ lệ hộ nghèo hàng năm giảm 4 - 5%.
“Khởi sắc” nhiều mặt
Từ năm 2009-2014, bằng nguồn vốn của các Chương trình 135, 134, 30a…, tỉnh đã đầu tư xây dựng trên 600 công trình hạ tầng nông thôn, phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân với tổng vốn trên 1.800 tỉ đồng. Đến nay, 90% diện tích lúa nước ở các xã miền núi, vùng cao được tưới bằng hệ thống thủy lợi, 100% số xã có đường nhựa hoặc đường bê tông xi măng đến trung tâm xã; 94,3% số làng có điện lưới quốc gia; 100% số xã có trường tiểu học; 100% số xã có trạm y tế; 90% số hộ được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững, như: Giao khoán quản lý, bảo vệ rừng; hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi; chuyển giao tiến bộ KHKT vào sản xuất, chăn nuôi; hỗ trợ tín dụng ưu đãi; xây dựng nhà ở cho hộ nghèo; xúc tiến quảng bá sản phẩm… đã được các địa phương triển khai có hiệu quả. Nhờ vậy, sản xuất nông - lâm nghiệp phát triển tương đối toàn diện, góp phần tăng năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi. Năng suất lúa tại các xã miền núi, vùng cao tăng dần từ 46,8 tạ/ha năm 2009 đến nay đạt 56,7 tạ/ha. Kinh tế trang trại được nhân rộng, nhiều hộ đã cải tạo vườn tạp, nương rẫy, đồi núi trọc để lập gia trại, trang trại đạt hiệu quả kinh tế cao.
Giá trị sản xuất công nghiệp - TTCN, làng nghề truyền thống ở 3 huyện miền núi Vĩnh Thạnh, Vân Canh, An Lão năm 2014 đạt khoảng 60 tỉ đồng, tăng 10 tỉ đồng so với năm 2009, tốc độ tăng bình quân hàng năm 15%. Tại các huyện miền núi hiện có 8 cụm công nghiệp được xây dựng, thu hút nhiều doanh nghiệp vào sản xuất ổn định, hiệu quả. Các làng nghề dệt vải thổ cẩm và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ vải thổ cẩm đang được các địa phương đầu tư và phục hồi, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân.
Ông Trương Văn Vinh, Phó Ban Dân tộc tỉnh, cho biết: Nhờ thực hiện có hiệu quả các CSDT, diện mạo nông thôn miền núi có nhiều thay đổi, đời sống của ĐBDTTS từng bước được cải thiện. Bình quân mỗi năm, tỉ lệ hộ nghèo tại các huyện miền núi giảm từ 4-5%. Đáng ghi nhận là nhận thức của ĐBDTTS trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình có chuyển biến tích cực; các hủ tục, tập quán sinh hoạt, canh tác lạc hậu đã từng bước được khắc phục và đẩy lùi.
Tiếp tục hỗ trợ để phát triển bền vững
Mới đây, Đoàn công tác của Ủy ban Dân tộc do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử dẫn đầu đã về kiểm tra tình hình thực hiện các CSDT ở tỉnh ta. Tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh, các thành viên trong đoàn đã tập trung phân tích những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, và bàn các giải pháp thực hiện có hiệu quả các CSDT trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Theo Chủ tịch UBND tỉnh Hồ Quốc Dũng, việc thực hiện các CSDT trong thời gian qua đã đạt kết quả khả quan, song vẫn còn những tồn tại, hạn chế, cần nhanh chóng khắc phục. Đáng chú ý là công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách đến với người dân có nơi, có lúc chưa được đồng bộ và thường xuyên. Một số nơi, người dân chưa hiểu đầy đủ các chính sách và mục tiêu đề ra nên chưa chủ động tham gia, còn tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng. Một số chương trình, dự án hỗ trợ vùng ĐBDTTS không bố trí đủ vốn, định mức đầu tư còn thấp nên thường bị kéo dài thời gian thực hiện. Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm cho ĐBDTTS còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã miền núi, vùng cao còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác tại địa phương.
Toàn tỉnh hiện có 33 xã, thị trấn có ĐBDTTS sinh sống tập trung theo cộng đồng làng, xã thuộc 6 huyện, gồm: An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh, Hoài Ân, Tây Sơn và Phù Cát. Dân số ĐBDTTS tại các địa phương 9.838 hộ, 37.500 nhân khẩu, chiếm khoảng 2,2% dân số toàn tỉnh; với 3 DTTS chính gồm: Chăm, Bana, Hre.
Để thực hiện các CSDT đạt hiệu quả cao, UBND tỉnh đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ sớm phê duyệt Chương trình mục tiêu đặc thù hỗ trợ phát triển KT-XH vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2016 - 2020. Trung ương cần cấp đủ nhu cầu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất các xã, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2016 - 2020. Tham mưu Chính phủ bổ sung vốn để thực hiện các chính sách, chương trình, dự án do Ủy ban Dân tộc quản lý, chỉ đạo như: Chương trình 135 giai đoạn III; Quyết định số 755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho hộ ĐBDTTS nghèo và hộ nghèo ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn. Trung ương cho chủ trương thu hồi đất của các công ty lâm nghiệp sử dụng đất lâm nghiệp không hiệu quả giao cho các hộ ĐBDTTS còn thiếu đất sản xuất.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử đánh giá cao những kết quả đạt được trong thực hiện các CSDT ở tỉnh ta, nhất là trong giải quyết các vấn đề đầu tư hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục, chăm sóc sức khỏe người dân tại các vùng ĐBDTTS. Bộ trưởng lưu ý, thời gian tới, tỉnh cần chỉ đạo quyết liệt hơn nữa để tháo gỡ những khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện các CSDT; tập trung chú trọng giải quyết đất sản xuất, đất ở, cho vay vốn sản xuất và chuyển giao các tiến bộ KHKT sản xuất cho bà con. Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở các huyện miền núi; có kế hoạch quy hoạch nguồn, bố trí việc làm phù hợp cho con em ĐBDTTS trong diện được cử tuyển. Về những đề xuất, kiến nghị của tỉnh, Bộ trưởng cho rằng rất xác đáng, phù hợp với thực tế công tác dân tộc hiện nay. Ủy ban Dân tộc ghi nhận, đề xuất với Chính phủ xây dựng các chính sách hỗ trợ vùng ĐBDTTS trong thời gian đến.
NGUYỄN HÂN