Không thể lãng quên
Đã 40 năm kể từ ngày đất nước im tiếng súng. Tưởng chừng những tháng ngày khói lửa đã phai mờ trong ký ức của người trong cuộc. Thế mà, mỗi lần có dịp, vùng ký ức ấy vẫn kéo về, bồi hồi, vẹn nguyên trong những người khoác chiếc áo blouse dạo ấy.
Buổi gặp mặt cán bộ y tế kháng chiến được Sở Y tế tổ chức chiều 25.4 là một dịp như thế. Hơn 650 cán bộ ngành Y từng tham gia phục vụ trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn tỉnh được gặp nhau, tay bắt mặt mừng, nhiều người len lén đưa tay quệt nước mắt. Sau những lời hỏi han về cuộc sống hiện tại, cuộc chuyện trò giữa họ lại quay về những kỷ niệm của một thời.
Một thời gian khổ
“Bộ đội ở đâu, y tá ở đó” là phương châm của những cán bộ y tế trong kháng chiến. “Qua từng trận chiến khốc liệt càng khẳng định tình thương như ruột thịt giữa bộ đội và y tá. Chúng tôi luôn tâm niệm, phải dùng mọi cách để cứu chữa thương binh như giữ lấy mạng sống cho anh em nhà mình”, ông Nguyễn Văn Minh (73 tuổi, hiện ở xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ), mở đầu câu chuyện.
Ông Minh từng là y tá phục vụ ở các chiến trường Phù Mỹ, Phù Cát, Hoài Ân, Vĩnh Thạnh. Ông bảo, thời ấy, y tá không chỉ là y tá, bởi ông và những đồng nghiệp nhiều khi phải trực tiếp cầm dao mổ. Kỷ niệm để đời của ông là một lần mổ cấp cứu cho một chiến sĩ đau ruột thừa. Không có phương tiện chụp chiếu, nhưng với kinh nghiệm của một y tá từng trải, ông chẩn đoán chính xác ca bệnh, huy động anh em tập trung thuốc giảm đau, kháng sinh liều cao để điều trị. “Đau ruột thừa mà không mổ trước 24 giờ thì dễ tử vong. Bệnh nhân đau đớn đến mê sảng, la chửi om sòm; còn “kíp mổ” vẫn kiên trì thực hiện thành công. Người chiến sĩ ấy giờ đã 82 tuổi”, ông Minh nhớ lại.
Những ngày kháng chiến, trang thiết bị phục vụ khám chữa bệnh hết sức hạn chế. Trong điều kiện đó, cán bộ y tế phải tìm mọi cách để xoay xở. Ông Minh cho hay, phải lấy nước muối thay cồn sát trùng, lấy lá trầu không đắp vết thương bỏng, dùng lá ổi lá sim trị bệnh đường ruột…
Nói về những cách làm sáng tạo của đội ngũ y tế trong kháng chiến, bà Bùi Thị Kiện (65 tuổi, ở Mỹ Phong, Phù Mỹ) bồi hồi nhớ lại: “Chúng tôi phải tìm phân khô, đốt lên để làm thuốc NT9, cho anh em uống, chống nhiễm trùng. Một cây kim mà bạn tôi mài không biết bao nhiêu lần, để đầu kim nhọn, khi tiêm không làm đau nhiều. Băng gạc dùng xong lại giặt, phơi khô để tái sử dụng, chứ làm gì có nồi hấp. Sốt rét ác tính tràn lan, chúng tôi phải hái từng chiếc lá, tận dụng dược liệu có ở nơi đóng quân. Để có thuốc dùng, chúng tôi phải vào vùng địch chiếm, vận động người dân góp tiền mua thuốc, có lần được bà con cho cả bao Penicillin”.
Không chỉ chăm sóc, điều trị, các cán bộ y tế còn làm nhiệm vụ bảo vệ thương binh. Bà Kiện kể, cứ 5-10 ngày, nhận tin báo địch sắp càn, bà và đồng nghiệp ở Trạm xá Mỹ Thọ phải tức tốc di chuyển gạo thuốc, cõng thương binh dời đi. Còn ông Mai Văn Công (70 tuổi, hiện ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát) vẫn nhớ mãi một đêm trăng non đưa 4 cán bộ cách mạng từ căn cứ ở Núi Bà xuống Đề Gi. Cả 4 người đều bị quân Nam Triều Tiên phát hiện, cho pháo nã dồn dập, tất cả đều bị thương nặng. Ông đi trước dẫn đường, may mắn thoát nạn. Để rồi, mình ông băng bó vết thương, tiêm thuốc cầm máu, rồi lần lượt cõng từng người xuống núi đến bệnh xá ở xã Cát Thắng. “Đến giờ, tôi vẫn chẳng hiểu sao lúc đó mình lại bình tĩnh đến thế, khỏe đến thế”, người y tá già ngập ngừng chia sẻ.
Bao người hy sinh…
Theo thông tin từ Ban liên lạc cán bộ y tế kháng chiến tỉnh Bình Định, trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), đã có 470 cán bộ y tế đã anh dũng hy sinh. “Toàn ngành có 1.968 người phục vụ trên khắp chiến trường Bình Định. Tính ra, cứ 4 người thì có 1 người hy sinh”, ông Hoàng Tâm, nguyên Phó Giám đốc Sở Y tế Nghĩa Bình, nguyên Trưởng ban dân y tỉnh Bình Định, rành rọt tính. Những con số khô khốc ấy đã nói lên sự khốc liệt của chiến tranh và sự hy sinh cao cả của những người lính mặc áo blouse.
Đưa tay sửa đôi kính lão, người cán bộ y tế lão thành xúc động kể về sự kiện tháng 12.1966, địch đổ quân càn quét vùng phía Tây xã Cát Hiệp (huyện Phù Cát)- nơi đặt Bệnh xá tỉnh với 70 thương bệnh binh và hàng chục cán bộ y tế. Tất cả đều lọt vào vòng vây của địch, trong đó có cháu bé mới 6 tháng tuổi của y tá Nguyễn Thị Hương. Trong khoảnh khắc mỏng manh giữa lằn ranh sinh - tử, sợ cháu bé khóc to làm lộ cả đơn vị, chị Hương đã áp chặt vú vào miệng con. Và, cháu bé đã chết ngạt, để cứu sống trên 100 mạng người.
Trong khi đó, lực lượng y tế làm công tác dự phòng cũng chịu nhiều tổn thất, hy sinh. Đầu năm 1971, trên đường đi chống dịch cho người dân ở Trường Xuân (nay thuộc xã Tam Quan Bắc, huyện Hoài Nhơn), bác sĩ Mai Thị Thu bị rơi vào ổ phục kích. Sau khi bị bắt, bị địch hành hạ dã man bằng những nhát lê đâm vào vùng kín, chị vẫn kiên trung giữ bí mật, và dũng cảm hy sinh.
Suốt buổi gặp mặt chiều ấy, trong câu chuyện của những người bước ra khỏi cuộc chiến vẫn còn nguyên nỗi nhớ từng đồng đội đã ngã xuống. Mỗi người thắp lên bàn thờ một nén nhang. Và đau đáu nỗi niềm vì vẫn còn những người y tá - chiến sĩ còn nằm lại chiến trường, chưa được đưa về với gia đình, người thân…
NGUYỄN VĂN TRANG