Một số lưu ý khi làm bài thi vào lớp 10
Trong hai ngày 18 và 19.6.2015, 22.600 học sinh đã tốt nghiệp THCS sẽ tham dự kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT công lập. Năm nay, hệ công lập sẽ tuyển 11.000 thí sinh (TS). Ngoài việc vững kiến thức, kỹ năng làm bài là yếu tố quan trọng quyết định điểm số cuối cùng.
Trước kỳ thi, một số giáo viên nhiều năm được chọn vào ban giám khảo chấm thi vào lớp 10 đã lưu ý, thí sinh thường mắc một số lỗi tuy đơn giản nhưng lại mất điểm khá đáng tiếc. Cùng với việc chỉ ra những lỗi này, các giáo viên còn tư vấn hướng khắc phục.
Một tiết học tiếng Anh của học sinh Trường THCS Lê Lợi, TP Quy Nhơn.
MÔN NGỮ VĂN: Xác định chính xác yêu cầu của đề
Câu 1 của đề (1-4 điểm) thường yêu cầu TS chỉ ra tác giả, tác phẩm một đoạn văn/thơ, xác định về từ vựng, ngữ pháp, tìm phong cách ngôn ngữ và từ ý văn/thơ đó triển khai thành bài nghị luận về một vấn đề xã hội.
Với các đoạn trích từ tác phẩm truyện, TS thường xác định vị trí không chính xác. Nhiều TS xác định không đầy đủ các biện pháp tu từ, không chú ý đến giá trị nghệ thuật, nội dung của đoạn trích. Khi viết bài nghị luận xã hội, một số TS chỉ mới nắm luận điểm dẫn đến bài viết hoàn toàn thoát li nội dung, ý nghĩa của đoạn trích.
Câu 2 (2-6 điểm) yêu cầu TS nêu những thành công về nghệ thuật của tác phẩm, giá trị về nội dung, chất triết lý của tác phẩm, ý nghĩa tình huống truyện; rồi so sánh các tác phẩm cùng đề tài, cảm nhận về giá trị nhân đạo, nghệ thuật đặc sắc và nghị luận về một vấn đề xã hội. TS thường viết dài nhưng lại nêu không đầy đủ, thiếu chính xác các ý cần thiết. Khá nhiều trường hợp so sánh các tác phẩm cùng đề tài nhưng không chú ý đến phong cách riêng của tác giả. Khi triển khai vấn đề, TS hay bị thiếu dẫn chứng chọn lọc từ thực tế xã hội, phân tích nguyên nhân hay đưa ra giải pháp thường mang tính chủ quan, thiển cận, thiếu khách quan, toàn diện.
Câu 3 (5-7 điểm) viết bài nghị luận văn học, TS ít chú trọng việc xác định yêu cầu của đề, lập dàn ý, dự kiến các ngữ liệu quan trọng cần phân tích, dẫn chứng, đối chiếu, bàn luận mở rộng. Thường bỏ qua phần phân tích, đánh giá nghệ thuật tác phẩm. Cấu trúc bài viết thiếu cân đối mà phổ biến là dạng đầu voi đuôi chuột.
TS hãy ghi nhớ, khi làm bài phải đọc kỹ toàn bộ văn bản, bám sát vào nội dung luận điểm mà đoạn trích gợi ra. Bên cạnh những dẫn chứng cụ thể từ đời sống xã hội, TS có thể dùng một số dẫn chứng từ đoạn văn/thơ hoặc tác phẩm để làm sáng tỏ vấn đề. Cần triển khai vấn đề toàn diện, khách quan, phần liên hệ bản thân cần đưa ra các ý kiến của cá nhân nhưng phải phù hợp, mang tính chất tích cực, tiến bộ.
Khi làm câu nghị luận văn học, trước khi viết phần kết bài cần nhớ viết đoạn văn đánh giá về nghệ thuật tác phẩm.
(Cô giáo TRẦN THỊ TỐ TÂM, Trường THCS Lê Lợi, TP Quy Nhơn)
MÔN TOÁN: Khi giải cần phải có căn cứ và chứng minh rõ ràng
Thông thường đề thi với thang điểm 10, nếu TS nắm chắc kiến thức cơ bản sẽ được 7 điểm. Trên thực tế, cho dù đã vững kiến thức, số TS lấy trọn điểm 7 lại không nhiều vì mắc sai sót lúc làm bài. Có những lỗi rất sơ đẳng như trong bài toán giải phương trình, TS thiếu trả lời tập nghiệm hoặc dùng dấu suy ra; hoặc thiếu đặt điều kiện, thiếu kiểm tra.
Dạng bài toán giải bằng cách lập phương trình hoặc hệ phương trình, các TS thường mắc lỗi ở khâu đặt điều kiện. Nhiều TS đặt điều kiện cho ẩn không đúng. Khi đặt điều kiện, TS phải ghi nhớ, đối tượng là con người, đồ vật thì điều kiện nguyên; còn thời gian, quãng đường, khối lượng thì có thể không cần nguyên.
Với Toán hình, nhiều TS có hướng giải đúng, nhưng quá trình làm bài lại bị thiếu căn cứ, làm bỏ bước… dẫn đến bị mất điểm hoặc trừ điểm. Muốn vậy, TS phải học thật nhuyễn lý thuyết. Khi vẽ hình, phải cố vẽ thật chính xác. Nhớ là khi giải cần phải có căn cứ và chứng minh rõ ràng, lô gích.
Mỗi ý đúng trong bài thi đều có điểm, nên hãy viết lời giải để có thêm 0,25 điểm. Đừng xem đây là chuyện nhỏ nhặt, vì nhiều lần 0,25 sẽ là một con số lớn.
(Thầy giáo Nguyễn Cường, Trường THCS Ghềnh Ráng, TP Quy Nhơn)
MÔN TIẾNG ANH: Nắm chắc vị trí các từ loại
Với dạng bài xác định cách đọc của một động từ hợp quy tắc thêm ed, TS thường mất điểm với cách đọc /t/. TS hãy học và nhớ thật kỹ phần này. TS cũng cần ghi nhớ cách đọc /iz/, /s/, /z/ của một danh từ ở số nhiều. Hãy tham khảo phần phiên âm sau SGK.
Phần cho hình thức đúng của từ trong ngoặc, TS thường bị sai. Ví dụ: We all know that using our cars causes air (pollute)..........but we still do it. Để làm được dạng bài này, TS phải xác định chỗ trống còn thiếu là loại từ nào? Noun (danh từ),Verb (động từ), Adjective (tính từ) or Adverb (trạng từ). TS phải nắm thật chắc vị trí của các từ loại trên khi được đặt vào trong câu, ví dụ như tính từ đứng trước danh từ, trạng từ đứng trước hoặc sau động từ thường hoặc xem thử chỗ trống đòi hỏi phải chia thì, ở dạng câu chủ động hay bị động.
Phần chuyển câu chủ động sang bị động cũng làm nhiều TS mất điểm. TS nên xác định câu đề ở thì nào và áp dụng cấu trúc câu bị động tương ứng để làm bài hiệu quả.
(Cô PHAN TRƯƠNG NGỌC TRANG, Trường THCS Bình Thành, huyện Tây Sơn)
NGỌC TÚ (ghi)