Góp ý dự án Bộ Luật dân sự (sửa đổi)
Phát biểu góp ý về dự án Bộ Luật dân sự (sửa đổi), Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Nguyễn Văn Cảnh (Đoàn Bình Định) cho rằng, để thuận tiện trong việc cung cấp giấy tờ cho người dân, tránh bớt rắc rối phát sinh cho chính họ và cá nhân, tổ chức khác trong giao dịch dân sự hay kiểm tra hành chính, do đó việc giới hạn số chữ cái đối với họ và tên của cá nhân là phù hợp và cần thiết. Dưới đây là phần trích phát biểu của ĐBQH Nguyễn Văn Cảnh.
Thứ nhất quy định về bảo vệ người thứ ba ngay tình tại điều 133
Khoản 2 Điều 133 quy định "Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng quyền sở hữu, vật quyền khác đối với tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu". Tôi đồng tình với nội dung trong báo cáo Chính phủ vừa gửi đại biểu Quốc hội đó là "trong quan hệ dân sự, quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể đều phải được tôn trọng, bảo vệ, không phụ thuộc đó là chủ sở hữu, người có vật quyền khác hay người thứ ba ngay tình" Theo tôi việc pháp luật tuyệt đối hóa quyền của chủ sở hữu hay người thứ ba ngay tình đều không phù hợp. Trong cuộc sống có rất nhiều tình huống dẫn đến tranh chấp giữa chủ sở hữu với người thứ ba ngay tình. Nếu không chi tiết hơn nội dung của khoản 2 sẽ không giải quyết thỏa đáng hết các trường hợp xảy ra trong thực tế. Tôi đề nghị ban soạn thảo chia khoản 2 thành nhiều điểm, mỗi điểm sẽ quy định cho từng nhóm có tranh chấp tương tự nhau và đề xuất hướng giải quyết riêng để đại biểu Quốc hội góp ý, như vậy sẽ tăng tính khả thi trong giải quyết tranh chấp. Quyền lợi thì phải đi với nghĩa vụ và trách nhiệm. Vì vậy tôi đề nghị các điểm trong khoản 2 nên quy định theo hướng là chủ thể nào đã tuân thủ pháp luật tốt hơn, sẽ được bảo vệ tốt hơn, sẽ khuyến khích người dân tìm hiểu pháp luật, nâng cao hơn ý thức chấp hành pháp luật để được pháp luật bảo vệ tốt hơn.
ĐBQH góp ý dự thảo Bộ Luật dân sự (sửa đổi).
Tôi đề nghị bổ sung thêm 1 nội dung trong luật đó là "trường hợp các giao dịch bất động sản mà quyền sử dụng, quyền sở hữu được tạo lập do sai sót của cơ quan nhà nước về số thửa, số nhà, tên chủ sở hữu thì người có quyền sử dụng, quyền sở hữu trước đó được bảo vệ".
Liên quan đến quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình, tại điều 173 dự thảo bộ luật quy định "trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu". Tôi đề nghị quy định lại nội dung này để thực hiện dễ dàng hơn trong thực tế đó là: Điều khiện đòi lại động sản là: chủ sở hữu phải chứng minh quyền sở hữu của mình đối với động sản đó. Nếu người thứ ba ngay tình mua động sản này từ người bán hợp pháp thì người thứ ba ngay tình có quyền sở hữu động sản đó. Chủ sở hữu có quyền yêu cầu bồi thường từ người bán. Nếu người thứ ba ngay tình không chứng minh được động sản đã mua từ người bán hợp pháp thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản.
Thứ hai về điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản tại điều 435.
Tôi đồng tình với ý kiến của Ủy ban pháp luật là không bổ sung quy định cho phép Tòa án điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản vì không phù hợp với nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận giữa các bên ký kết hợp đồng. Mục đích ký kết 1 hợp đồng là để thực hiện 1 việc hoặc nhiều việc, từng nội dung ràng buột trong hợp đồng là từng yếu tố đầu vào của nhiều việc khác, làm cơ sở để ký kết nhiều hợp đồng khác. Nếu hợp đồng được điều chỉnh do hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì làm sao đảm bảo các bên thực hiện được các kế hoạch đã được vạch ra do căn cứ trên nội dung các hợp đồng đã ký. Việc cho phép Tòa án điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản cũng sẽ bị 1 bên lợi dụng gây khó khăn cho bên kia khi họ không muốn thực hiện các cam kết trong hợp đồng. Nếu 1 hợp đồng của công ty bị đối tác yêu cầu đưa ra Tòa án vì lý do hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì công ty có thể sẽ bị mất hoặc bị hủy nhiều hợp đồng liên quan khác, bị giảm uy tín. Nếu ai cũng lấy lý do hoàn cảnh thay đổi cơ bản để đưa sự việc ra Tòa án nhằm mục đích không thực hiện nghĩa vụ của mình thì quyền lợi của cá nhân, tổ chức khác và có thể ổn định xã hội sẽ bị ảnh hưởng. Khi một bên gặp khó khăn thì 2 bên có thể tự thương lượng để điều chỉnh hợp đồng, tự khắc phục khó khăn, chứ không tạo điều kiện để họ chuyển khó khăn cho người khác. Vì vậy tôi đề nghị không quy định nội dung này trong luật.
Thứ ba liên quan đến hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng tại điều 662 quy định "Trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó". Tuy nhiên để quyền lợi của những người liên quan đến di sản được đảm bảo, tôi đề nghị luật cần bổ sung thêm nội dung đó là "Trong trường hợp vợ, chồng còn sống tái hôn thì thời điểm có hiệu lực của di chúc đối với phần di sản trong tài sản chung là thời điểm vợ, chồng còn sống tái hôn."
Để đảm bảo người còn sống có cuộc sống ổn định khi vợ hoặc chồng chết đột ngột mà không để lại di chúc thì luật cần bổ sung thêm nội dung "nếu vợ, chồng chết trước mà không để lại di chúc thì tài sản chung của vợ chồng là bất động sản duy nhất sẽ không đem chia cho đến khi người còn lại chết, tái hôn hoặc đồng ý chia".
Thứ tư liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với họ, tên tại điều 26:
Tại khoản 3 Điều 26 có quy định "không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ. Họ, tên của một người không được quá hai mươi lăm chữ cái". Hiện chúng ta có rất nhiều loại giấy tờ và các loại thẻ nhỏ gọn để thực hiện các giao dịch dân sự, để kiểm tra hành chính như Giấy CMND, giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy phép lái xe, thẻ bảo hiểm y tế, sổ bảo hiểm xã hội, sổ tiết kiệm, thẻ tín dụng… Nếu họ tên quá dài thì các giấy tờ trên sẽ không đủ chỗ để ghi đầy đủ họ và tên, nếu viết tắt một số từ có thể sẽ gây nhầm lẫn, dẫn đến các giao dịch dân sự, hay việc kiểm tra hành chính không được chấp nhận.
Nếu không giới hạn số chữ cái đối với họ tên thì khi người dân muốn đặt họ tên 100 chữ cái, cơ quan nhà nước có chấp nhận không. Nước ta thì đã có tên 35 chữ cái, nước ngoài đã có tên trên 300 chữ cái. Để thuận tiện cho việc cung cấp giấy tờ cho người dân, trách bớt rắc rối phát sinh cho chính họ và các cá nhân, tổ chức khác trong giao dịch dân sự hay kiểm tra hành chính vì tên họ quá dài, tôi tán thành với việc có giới hạn số chữ cái đối với họ tên của cá nhân, tuy nhiên cơ quan soạn thảo cần làm rõ hơn tính hợp lý vì sao giới hạn là 25 chữ cái mà không phải là giới hạn khác. Bên cạnh đó cần có 1 quy định để đáp ứng nhu cầu đặt họ tên của người dân không hạn chế số chữ cái nếu tên đó là vì mục đích thể hiện nguồn gốc hay thực hiện tâm nguyện chính đáng của người thân đã mất…
Nếu quy định giới hạn số chữ cái đối với họ tên được chấp nhận thì tại điều 28 quy định về quyền đổi tên cần bổ sung 1 nội dung đó là: "cá nhân có quyền thay đổi tên nhằm mục đích rút ngắn họ tên phù hợp với quy định tại khoản 3 điều 26".
Thứ 5 liên quan đến thời điểm, địa điểm mở thừa kế quy định tại điều 627. Khoản 1 có nêu "Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 70 của Bộ luật này". Trên thực tế có xảy ra trường hợp khi người chết chưa được an táng, người nhà đã mở thừa kế do luật không cấm; nội dung thừa kế không thỏa mãn 1 hoặc 1 vài cá nhân trong gia đình, gây ra xung đột gia đình không đáng có trong thời gian tiến hành tang lễ, gây ảnh hưởng đến tình cảm gia đình. Vì vậy tôi đề nghị khoản 1 điều chỉnh lại cho phù hợp với văn hóa, truyền thống gia đình đó là "Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết và đã được an táng. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 70 của Bộ luật này".
VĂN NGUYỄN (Ghi)