Phòng trừ rầy cho lúa vụ Thu và vụ Mùa
Rầy nâu, rầy lưng trắng (RN-RLT) là hai trong số những loài dịch hại nguy hiểm số một trên cây lúa. Theo dự báo, có 3 đợt rầy non nở rộ gây hại trực tiếp trên lúa vụ Thu và vụ Mùa 2015.
Ngoài gây hại trực tiếp, RN-RLT còn là môi giới truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, những bệnh cực kỳ nguy hiểm cho cây lúa, đã từng gây thành dịch trên diện rộng ở nước ta cách nay vài năm. Theo dự báo từ Chi cục Bảo vệ thực vật, lứa rầy non thứ nhất từ ngày 28.7 - 5.8 gây hại lúa Thu giai đoạn ngậm sữa và lúa sạ vụ Mùa giai đoạn đòng; lứa rầy non thứ hai từ ngày 1.9 - 10.9 gây hại lúa sạ vụ Mùa giai đoạn trỗ đến chắc xanh; lứa rầy non thứ ba từ ngày 1.10- 10.10 gây hại lúa gieo khô vụ Mùa giai đoạn trỗ đến chắc xanh.
Ảnh minh họa
Để hạn chế tác hại của RN-RLT phải áp dụng kết hợp nhiều biện pháp một cách đồng bộ và hợp lý trong quy trình quản lý dịch hại tổng hợp, như: Không gieo sạ một loại giống lúa liên tục trên cùng chân đất; vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ; dùng giống kháng rầy; không gieo sạ quá dày; gieo sạ đồng loạt và tập trung trên từng cánh đồng, khu đồng; bón phân cân đối giữa đạm, lân và kali; không nên dùng thuốc trừ sâu phổ rộng ở đầu vụ.
Thường xuyên theo dõi, kiểm tra đồng ruộng, kịp thời phát hiện và xử lý rầy khi có mật số cao. Nếu số lượng RN-RLT trung bình (gần hoặc bằng ngưỡng phòng trừ: 3-5 con/dảnh lúa) trở lên, thì cần xem xét kỹ tình hình thiên địch. Nếu thiên địch nhiều gấp rưỡi so với RN-RLT thì cần điều chỉnh các biện pháp canh tác nhằm thay đổi điều kiện thuận lợi tránh RN-RLT tiếp tục phát triển và tăng sức chống chịu, bồi bổ thêm cho cây lúa. Trong trường hợp số lượng thiên địch ít hơn thì cần tiến hành phòng trừ ngay.
Nên chọn các loại thuốc trừ rầy ít hại thiên địch, chẳng hạn như Chess 50 WG, Actara 25 WG, Bassa 50EC, Regent 800WG, Marshal 200SC, Applaud 10WP… Khi phun thuốc phải tuân thủ theo nguyên tắc “4 đúng” (đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng lúc và đúng cách); cũng không nên “cố” tiêu diệt hoàn toàn mà chỉ cần tiêu diệt được trên 80% RN-RLT giảm mật số xuống dưới ngưỡng phòng trừ là đạt hiệu quả, đồng thời giảm thiểu chi phí phòng trừ.
Thạc sĩ ĐINH VĂN TOẠI (Sở NN&PTNT)