TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI
Về dự thảo Luật Hòa giải cơ sở
Trong phiên thảo luận tại hội trường (kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII), ngày 31.5, về dự thảo Luật Hòa giải cơ sở, đại biểu Nguyễn Thanh Thụy, Ðoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Ðịnh, đã phát biểu đóng góp một số ý kiến thiết thực. Dưới đây là phần trích nội dung bài phát biểu của đại biểu Nguyễn Thanh Thụy.
Qua nghiên cứu dự thảo Luật Hòa giải cơ sở, tôi xin có một số ý kiến như sau:
Thứ nhất, về vai trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các thành viên của Mặt trận, trong dự thảo đã đề cập đến vai trò của MTTQ và các tổ chức thành viên trong công tác hòa giải ở cơ sở. Tuy nhiên, theo tôi chưa rõ nét, rà soát lại 33 điều của dự thảo luật chỉ có 4 khoản đề cập đến tổ chức thành viên của Mặt trận, đó là Khoản 2 Điều 5, Khoản 3 Điều 13, Khoản 1 Điều 19, Khoản 2 Điều 30, nhưng các quy định này lại chung chung, chưa thể hiện được vai trò nòng cốt của MTTQ và các tổ chức thành viên, nhất là sự phối hợp với các tổ chức khác trong quá trình thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Qua tổng kết 13 năm thực hiện Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở cho thấy: 80% số vụ hòa giải thành đều có sự đóng góp rất quan trọng của MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Hiện tại hầu hết ở tổ, khu phố có đầy đủ các tổ chức thuộc hệ thống chính trị, đây là những tổ chức gần gũi có tầm ảnh hưởng sâu rộng và chi phối nhiều mặt cuộc sống của cộng đồng dân cư, quy tụ một lực lượng đông đảo các thành viên, thành phần xã hội tham gia.
Do đó, tôi đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu làm rõ hơn để phát huy vai trò nòng cốt của MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong dự thảo luật, nhằm giúp các bên tham gia hòa giải tranh chấp có hiệu quả hơn, nhất là cơ chế phối hợp giữa MTTQ và các đoàn thể với các bên tham gia hòa giải. Trên cơ sở đó cần quy định mở rộng đối tượng hòa giải viên (HGV) như là bổ sung các hội-đoàn thể cũng được phép thành lập các tổ hòa giải, điều này phù hợp với quan điểm tăng cường xã hội hóa và chú trọng yếu tố tự nguyện, tự quản, tự quyết định của nhân dân trong hoạt động hòa giải ở cơ sở…
Vấn đề thứ hai, còn một số quy định khó áp dụng trong thực tế, tại Điều 5 quy định chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở có ba khoản quy định thì cụm từ khuyến khích được sử dụng đến ba lần, khuyến khích các bên giải quyết mâu thuẫn, khuyến khích những người có uy tín, khuyến khích các tổ chức, cá nhân... hỗ trợ cho hoạt động hòa giải hoặc quy định tại Khoản 7 mới của Điều 9 bổ sung về nội dung được hỗ trợ tạo điều kiện để khắc phục hậu quả nếu HGV gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hòa giải ở cơ sở. Đây là quy định không rõ ràng, khó áp dụng trong thực tế. Hiểu như thế nào cho đúng về tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng hoặc rủi ro đến mức nào thì được hỗ trợ. Do đó tôi đề nghị Ban soạn thảo cần rà soát lại để thể hiện cụ thể hơn, góp phần khắc phục tình trạng một số quy định của pháp luật hiện nay còn quá chung chung dẫn đến nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau trong thực tế.
Một số quy định chưa thể hiện đúng với bản chất của hoạt động hòa giải như quy định ở Khoản 3, Điều 20 “trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày được phân công hòa giải, HGV phải tiến hành hòa giải”, tại Khoản 3, Điều 23 quy định “sau 3 lần hòa giải mà không thành thì kết thúc việc hòa giải”, quy định như vậy vô hình chung chúng ta đã hành chính hóa hoạt động hòa giải, không đúng với bản chất của hòa giải là tự nguyện, kiên trì, linh hoạt trong quá trình hòa giải. Vì vậy tôi đề nghị không đưa Khoản 3 Điều 20; Khoản 3 Điều 23 vào dự thảo luật…
Vấn đề thứ ba, về kinh phí hoạt động của hòa giải ở cơ sở, tôi rất phân vân với quy định “chi trả thù lao cho HGV theo vụ việc HGV được hưởng một khoản bồi dưỡng khi thực hiện hòa giải” được quy định tại Khoản 1, Điều 6; Khoản 5, Điều 9. Trên thực tế, kinh phí của cấp xã chi cho hoạt động hòa giải rất hạn hẹp, đặc biệt đối với những xã ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn không có nguồn thu mà chủ yếu do ngân sách cấp trên hỗ trợ. Thù lao đối với một vụ việc hòa giải ở Bình Định rất thấp, trung bình mỗi một cuộc hòa giải thành được nhận từ 20.000 - 30.000 đồng, hòa giải không thành được thù lao từ 10.000 - 15.000 đồng, mức này rất thấp so với Thông tư Liên tịch 73 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính và thậm chí nhiều nơi không bố trí được kinh phí, HGV cũng không nhận tiền thù lao. Do đó, tôi đề nghị cơ quan soạn thảo cần tính toán cụ thể để giải trình nếu thực hiện chính sách như quy định của luật thì hàng năm cần bố trí bao nhiêu, cấp nào đảm bảo kinh phí…
Vấn đề thứ tư, phương án bầu hay lựa chọn HGV, tôi chọn phương án 2, thống nhất như giải trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội, qua lấy ý kiến tại địa phương thì phần đông các đồng chí làm công tác mặt trận ở cơ sở cũng thống nhất với phương án này, vì hiện nay tìm người làm công tác hòa giải không phải dễ, do đó đưa ra phương án bầu khó bảo đảm tính khả thi.