Thực hiện Dự án Phục hồi, quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn đầm Thị Nại:
Góp phần ứng phó với nguy cơ biến đổi khí hậu
Từ một vùng đầm phá có tiềm năng về nguồn lợi thủy sản và tính đa dạng sinh học, nhưng nguồn lợi thủy sản đầm Thị Nại không chỉ ngày càng cạn kiệt, tính đa dạng sinh học bị suy giảm, mà còn đối diện với nguy cơ chịu sự tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH). Dự án Phục hồi, quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn đầm Thị Nại sẽ góp phần phục hồi đa dạng sinh học, phát triển kinh tế và ứng phó với nguy cơ BĐKH.
Kết quả bước đầu
Theo ông Đinh Văn Tiên, Phó giám đốc Sở TN-MT, kiêm Giám đốc Văn phòng điều phối về BĐKH (CCCO) tỉnh, qua khảo sát, nghiên cứu cho thấy: Với diện tích trên 5.060 ha, đầm Thị Nại được đánh giá là vùng đầm có tính đa dạng sinh học rất cao. Tuy nhiên, do tác động của thiên nhiên và con người, thời gian qua, đầm Thị Nại đang phải đối diện trước nguy cơ suy thoái hệ sinh thái (HST), giảm sút tính đa dạng sinh học, suy giảm nguồn lợi thủy sản và nguy cơ bị ảnh hưởng bởi BĐKH.
Trồng rừng ngập mặn trên đầm Thị Nại.
Trước tình hình trên, được sự hỗ trợ, giúp đỡ của Viện Chuyển đổi môi trường và xã hội (ISET) và Viện Hải dương học Nha Trang, thời gian qua Sở TN-MT đã phối hợp với các sở, ngành và chính quyền địa phương triển khai thực hiện Dự án Phục hồi HST rừng ngập mặn (RNM) đầm Thị Nại. Dự án có 5 hợp phần, gồm: Đánh giá HST, chọn địa điểm phục hồi RNM; Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng; Quy hoạch quản lý tài nguyên và xây dựng một thỏa thuận đồng quản lý; Hỗ trợ sinh kế thay thế; Phục hồi RNM.
Sau hơn 3 năm triển khai (từ 2012 đến nay), dự án đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Theo Phó giáo sư, tiến sĩ Võ Sĩ Tuấn, Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang, HST RNM đầm Thị Nại được phục hồi đã thay đổi đáng kể nhận thức của cộng đồng. Nhiều hộ dân ven đầm đã tự nguyện tham gia công tác nhận khoán trồng, chăm sóc và bảo vệ RNM. Ngược lại, những diện tích RNM đã phát huy tốt vai trò, lợi ích trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó với BĐKH. Đáng mừng là hiện tất cả các công trình, dự án nạo, hút cát ven biển đều nằm bên ngoài khu vực quy hoạch trồng RNM đã được tỉnh phê duyệt; nhà thầu thi công đều phải có ý kiến đánh giá tác động môi trường của đơn vị được giao nhiệm vụ trồng rừng, nhằm không làm ảnh hưởng đến HST rừng và ưu tiên những diện tích quy hoạch trồng RNM.
Thành công ban đầu của dự án đã tác động đến một số sở, ngành, đơn vị trong việc phục hồi RNM, như: Dự án Nâng cấp hệ thống đê và trồng RNM để ứng phó với BĐKH vùng đầm Thị Nại; Dự án Thực hiện nâng cấp hệ thống đê và trồng RNM; Dự án Tăng cường khả năng ứng phó của cộng đồng ven biển trước những tác động của thiên tai; Dự án Bảo vệ và Phát triển RNM ứng phó với BĐKH…
Đặc biệt, UBND tỉnh đã có quy hoạch phát triển du lịch sinh thái gắn với RNM; đầu tư xây dựng công trình “Vườn ươm giống cây ngập mặn” với tổng mức đầu tư gần 5 tỉ đồng.
Tiếp tục thực hiện dự án
Kết quả ban đầu mà Dự án Phục hồi, quản lý HST RNM đầm Thị Nại là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, dự án vẫn còn một số khó khăn, hạn chế. Theo ông Đinh Văn Tiên, một số hợp phần của dự án chưa hoàn thành đúng tiến độ nên một số nội dung chưa thể hoàn thành. Đồng thời, tình hình thiên tai, bão lũ trên địa bàn tỉnh diễn biến bất thường, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ RNM, cũng như ảnh hưởng đến mô hình sinh kế. Bên cạnh đó, công tác chăm sóc RNM đòi hỏi phải thường xuyên, nhất là vào mùa rong phát triển (tháng 2 - tháng 6 hàng năm) trong khi công chăm sóc theo suất đầu tư hiện nay còn thấp, nên ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cây trồng RNM.
Tiếp tục triển khai dự án, theo ông Đinh Văn Tiên, từ nay đến cuối năm 2015 sẽ trồng mới 338,5 ha RNM, bảo vệ 408,5 ha RNM tập trung, xây dựng vườn ươm 1,2 ha; giai đoạn 2016 - 2020 sẽ phấn đấu phát triển trồng mới 52,9 ha và bảo vệ 461,4 ha RNM.
PGS-TS Võ Sĩ Tuấn cho biết: Để thực hiện mục tiêu trên, nhóm tư vấn của dự án đã đề ra kế hoạch, giải pháp cụ thể, như lựa chọn cây giống; tiêu chuẩn cây giống; quy trình, thời gian thực hiện; suất đầu tư; chọn hộ nhận khoán. Dự án sẽ chọn các loại cây bần trắng, mắm trắng, bần chua để trồng tại đầm Thị Nại. Sẽ điều chỉnh suất đầu tư trồng RNM theo đơn giá thời điểm hiện tại, điều chỉnh tăng số lần chăm sóc từ 1 lần/ha/năm lên 12 lần/ha/năm. Đồng thời, sẽ bổ sung kinh phí mua lưới chắn rong nhằm hỗ trợ cho người nhận khoán trong công tác chăm sóc rừng trồng, ngăn chặn rong, rác để đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia trồng RNM. Ban quản lý dự án sẽ thực hiện mô hình “đồng quản lý”, như chọn hộ nhận khoán, thành lập các nhóm/tổ/đội để phân chia thời gian, lịch trực chăm sóc và bảo vệ RNM thường xuyên. Tăng cường thực hiện việc hỗ trợ sinh kế, giúp cho hộ nhận khoán tham gia nhiệt tình hơn trong công tác chăm sóc và bảo vệ RNM.
VIẾT HIỀN