Công tác bảo vệ môi trường tại các KKT, KCN, CCN: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước
Thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường (BVMT) tại các Khu kinh tế (KKT); khu, cụm công nghiệp (KCN, CCN) trên địa bàn tỉnh đã có sự chuyển biến tích cực. Song cần có sự phối hợp thực hiện đồng bộ giữa các sở, ban, ngành, chính quyền địa phương, nhất là tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong công tác BVMT. Đây là đánh giá chung của Đoàn giám sát Ban Kinh tế và Ngân sách - HĐND tỉnh qua đợt giám sát về công tác BVMT vừa qua.
Ghi nhận những nỗ lực
Qua báo cáo của các sở, ngành, đơn vị, doanh nghiệp (DN) tại các buổi làm việc với Đoàn giám sát Ban Kinh tế và Ngân sách - HĐND tỉnh, có thể thấy so với những năm trước đây, công tác BVMT tại các KKT, KCN, CCN trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2014-2015 ngày càng được quan tâm và đạt kết quả đáng kể.
Theo ông Trần Đình Chương, Phó Giám đốc Sở TN-MT, thời gian qua, các cấp chính quyền đã quan tâm hơn đến công tác BVMT; công tác truyền thông nâng cao ý thức DN về BVMT đã có những chuyển biến tích cực. Đồng thời, công tác thẩm định, tham mưu phê duyệt, cấp phép trong lĩnh vực quản lý BVMT được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình; công tác thanh, kiểm tra, kiểm soát ô nhiễm môi trường (ÔNMT) và giải quyết khiếu nại được quan tâm. Bên cạnh đó, việc giải quyết các thủ tục về BVMT, thẩm định, phê duyệt các hồ sơ môi trường được thực hiện theo quy trình ISO 9001:2001 và được niêm yết công khai tại bộ phận “một cửa”.
Thành lập và hoạt động đã rất lâu song công tác BVMT tại CCN Nhơn Bình vẫn còn nhiều tồn tại, khó khăn.
- Trong ảnh: Một đoạn hệ thống thoát nước trong CCN Nhơn Bình bị ô nhiễm trầm trọng.
Riêng về công tác BVMT ở các KKT, KCN trên địa bàn tỉnh, ông Ngô Văn Tổng, Phó trưởng ban BQL KKT tỉnh, cho biết: Công tác quản lý nhà nước về BVMT trên địa bàn KKT Nhơn Hội và các KCN ngày càng hoàn thiện, đi vào nề nếp. Tất cả các KCN đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung; 100% DN đầu tư vào KKT và các KCN đã lập hồ sơ môi trường theo quy định; trên 97% DN thực hiện việc thu gom chất thải rắn sản xuất; các DN đã trồng trên 95% diện tích cây xanh tại mặt bằng dự án. BQL KKT tỉnh đã kịp thời xử lý các phát sinh, vướng mắc và các dấu hiệu gây ÔNMT trên địa bàn KKT và các KCN.
Còn theo ông Hà Ngọc Tân, Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Mỹ, trên địa bàn huyện hiện có 18 nhà đầu tư đăng ký đầu tư vào CCN, trong đó có 13 DN, cơ sở sản xuất, kinh doanh đang hoạt động ổn định. Điều đáng ghi nhận là hầu hết các DN, cơ sở đang hoạt động trong CCN đều thực hiện đúng theo quy định của Luật BVMT; 12/13 DN đang hoạt động đã lập hồ sơ cam kết BVMT và hồ sơ môi trường; đồng thời xây dựng các công trình BVMT trong khu vực sản xuất tương đối đầy đủ.
Ông Lê Văn Lai, Giám đốc Công ty CP Đầu tư hạ tầng KCN Nhơn Hòa, cho biết: Hệ thống thu gom nước thải, nước mưa và trạm xử lý nước thải tập trung tại KCN đã được xây dựng hoàn chỉnh, với công suất 1.000m3/ngày-đêm; hệ thống cấp nước sạch, nước thô được chuyển đến tận chân tường rào các DN. Toàn bộ 22 DN trong KCN đã thực hiện đấu nối nước thải vào hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN. Công ty còn hợp đồng với Công ty Môi trường đô thị Quy Nhơn vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt 2 lần/tuần. Kết quả, năm 2014, Công ty đã được BQL KKT tỉnh tặng danh hiệu “DN Xanh lá cây”.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước
Kết quả BVMT tại các KKT, KCN, CCN trên địa bàn tỉnh đạt được thời gian qua rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, nghiêm túc nhìn nhận, có thể thấy hiệu quả, hiệu lực kiểm soát ÔNMT chưa cao; vai trò quản lý nhà nước về BVMT vẫn còn những hạn chế, khó khăn.
Theo ông Ngô Văn Tổng, việc chấp hành các quy định của pháp luật về BVMT của các DN trong KKT, KCN vẫn còn tồn tại, hạn chế. Một số DN chưa có ý thức thực hiện công tác BVMT, chưa có giải pháp hữu hiệu trong công tác phân loại, thu gom, quản lý và xử lý chất thải rắn. Bên cạnh đó, kinh phí bố trí cho BQL KKT tỉnh còn hạn hẹp nên hạn chế việc thực hiện công tác quản lý nhà nước về môi trường và BVMT, chậm tiến độ xây dựng các công trình xử lý nước thải, xử lý ÔNMT. Hiện trên địa bàn tỉnh chưa có đơn vị nào xây dựng hệ thống xử lý chất thải nguy hại, nên các DN đầu tư vào KKT Nhơn Hội và các KCN gặp rất nhiều khó khăn.
Đối với huyện Phù Mỹ, theo ông Hà Ngọc Tân, ngân sách địa phương còn quá khó khăn nên nguồn kinh phí được phân bổ cho sự nghiệp BVMT tại CCN còn hạn chế, các công trình BVMT xây dựng chưa hoàn chỉnh, nhất là hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung. Một số DN, cơ sở sản xuất chưa thực hiện đầy đủ các nội dung BVMT như đã cam kết; một số DN còn xem nhẹ công tác BVMT.
Còn theo ông Trần Đình Chương, trên địa bàn tỉnh hiện mới chỉ có 9 KCN, CCN xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Công tác đấu nối nước thải sản xuất và nước thải sinh hoạt tại các KCN, CCN đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung còn hạn chế, nên việc vận hành hệ thống xử lý nước thải gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin quan trắc và công tác dự báo, cảnh báo ô nhiễm môi trường còn hạn chế…
Tại các buổi làm việc với Đoàn giám sát HĐND tỉnh, các sở, ngành, đơn vị đã đề xuất, kiến nghị nhiều vấn đề cụ thể, thiết thực về công tác BVMT, như: Tỉ lệ 1% ngân sách dành cho sự nghiệp môi trường phải được tỉnh và các địa phương cụ thể hóa và việc phân bổ, sử dụng kinh phí này phải được giám sát chặt chẽ, sử dụng hiệu quả. Vai trò quản lý nhà nước về BVMT phải được các sở, ngành, đơn vị, chính quyền địa phương quán triệt và nghiêm túc thực hiện. Cần có chế tài buộc các KCN phải đầu tư trạm quan trắc tự động nước thải đầu ra; đầu tư hệ thống theo dõi, truyền số liệu quan trắc về cơ quan quản lý để giám sát theo quy định; chủ đầu tư các CCN phải xây dựng quy chế BVMT của CCN nhằm quy định rõ trách nhiệm BVMT của chủ đầu tư và của các DN.
VIẾT HIỀN