Góp ý Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Ngày 24.10, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, các đại biểu thảo luận tại hội trường về Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Đây là một Bộ luật tác động đến nhiều đối tượng trong đời sống xã hội. Đại biểu Đặng Công lý (Đoàn đại biểu Quốc hội Bình Định) đã góp ý một số nội dung quan trọng của Dự thảo Bộ luật dân sự (DT BLDS).
Trước tiên, tôi cơ bản thống nhất DT BLDS (sửa đổi) đã được tiếp thu chỉnh lý qua các ý kiến đóng góp; tôi thống nhất cơ bản báo cáo giải trình tiếp thu chỉnh lý DT BLDS (sửa đổi) của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tôi xin phát biểu 3 vấn đề và trong thực tiễn xét xử còn vướng mắc.
Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129)
Tại Điều 134 BLDS hiện hành quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân thủ thì theo yêu cầu của một hoặc các bên tòa án (TA), cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu. Trong thực tiễn xét xử TA thấy quy định như BLDS có nhiều bất cập, vì khi xảy ra tranh chấp thì TA quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong thời hạn 1 tháng, lúc này chắc chắn các bên sẽ không thực hiện được vì đã xảy ra mâu thuẫn tranh chấp, và như vậy TA phải tuyên giao dịch dân sự này là vô hiệu. Mặc dù trong thực tế một hoặc hai bên đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ ở trong giao dịch.
Tại Điều 129, DT BLDS (sửa đổi) quy định: Giao dịch đã được xác lập mà vi phạm quy định bắt buộc bằng văn bản nhưng một hoặc các bên đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong giao dịch, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, TA quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó, giao dịch đã được xác lập bằng văn bản mà vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một hoặc các bên đã thực hiện, thì toàn bộ nghĩa vụ trong giao dịch theo yêu cầu của một hoặc các bên TA ra quyết định công nhận giao dịch đó có hiệu lực, quyết định của TA thay cho công chứng, chứng thực.
Việc DT Bộ Luật dân sự quy định tại Điều 129 đã mở rộng các trường hợp giao dịch, tuy không tuân thủ quy định về hình thức, nhưng không bị TA tuyên vô hiệu là phù hợp với thực tiễn xảy ra trong đời sống xã hội hiện nay. Vì có nhiều giao dịch vi phạm quy định về hình thức nhưng một hoặc các bên đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong giao dịch. Quy định như vậy đã khắc phục được ở tại Điều 134, BLDS hiện hành còn bất cập trong xét xử hiện nay. Do vậy, tôi hoàn toàn thống nhất như DT quy định tại Điều 129 nói trên
Về chủ thể trong quan hệ dân sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân (Điều 101).
Trong điều luật này chỉ quy định về việc tham gia của thành viên khi họ là đại diện cho hộ gia đình, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. Còn nếu thành viên tham gia quan hệ dân sự với tư cách cá nhân thì thực chất không có đặc điểm gì khác với các chủ thể là cá nhân khác, nên không cần thiết quy định ở điều luật này. Mặt khác việc quy định cá nhân tham gia các giao dịch dân sự vì lợi ích chung sẽ là chủ thể quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân sẽ gây khó khăn cho TA trong việc đánh giá giao dịch đó có nhằm phục vụ vì lợi ích chung hay không. Trường hợp thành viên không phải là người được cử làm đại diện nhưng tham gia quan hệ dân sự vì lợi ích chung thì quan hệ dân sự đó được coi là quan hệ dân sự do hộ gia đình tham gia hay không. Tôi đề nghị trong DT luật cũng phải quy định thống nhất căn cứ để xác định chủ thể đại diện cho hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân theo hướng đại diện của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân phải được các thành viên ủy quyền là hợp pháp.
Về thời hiệu (Mục 2, Chương X)
Tôi thống nhất như DT về thời hiệu đã được chỉnh lý theo hướng giữ lại các quy định về thời hiệu của BLDS hiện hành bao gồm thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn, trừ nghĩa vụ dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Quy định như vậy bảo đảm giữ được các thời hiệu của BLDS hiện hành, đồng thời bao quát đầy đủ hơn các loại thời hiệu mà BLDS và các luật có liên quan quy định. Tôi thống nhất với các quy định mới của DT về việc TA chỉ áp dụng thời hiệu yêu cầu của một bên và các bên đương sự. Tuy nhiên, hiện nay DT mới chỉ dừng lại ở việc quy định giải quyết hậu quả của việc hết thời hiệu về thừa kế như quy định tại Điều 623 của DT BLDS.
Về thời hiệu thừa kế đã nâng thời hiệu chia thừa kế lên 30 năm với bất động sản và 10 năm đối với động sản. Mặt khác, DT luật cũng quy định các ưu tiên trong việc xác lập quyền sở hữu di sản thừa kế và hết thời hiệu đối với yêu cầu là chia thừa kế lần lượt các thừa kế đang quản lý di sản. Tiếp đến là người chiếm hữu một cách ngay tình, liên tục, công khai, nếu không có người chiếm hữu đầy đủ các điều kiện này thì di sản sẽ thuộc về Nhà nước. Như vậy, trong DT luật đã quy định rõ việc giải quyết hậu quả của việc hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Các trường hợp khác của DT luật là khi một hoặc các bên đương sự yêu cầu TA áp dụng thời hiệu thì hậu quả của việc áp dụng thời hiệu đó giải quyết như thế nào trong DT chưa quy định. DT không quy định hậu quả pháp lý về việc xác định quyền, nghĩa vụ của các bên khi hết thời hiệu khởi kiện thì sẽ không có căn cứ pháp lý để TA giải quyết. Vậy, trong những trường hợp này TA sẽ phải đình chỉ việc giải quyết vụ án hay phải ra bản án để tuyên quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật đó. Tôi đề nghị DT cần phải quy định rõ hậu quả pháp lý của tất cả các trường hợp khi đương sự yêu cầu TA áp dụng thời hiệu.
SỸ NGUYÊN (Ghi)
Đại biểu Nguyễn Văn Cảnh (Đoàn đại biểu Quốc hội Bình Định) góp ý Điều 419 DT BLDS (sửa đổi) về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Đây là một trong những nội dung quan trọng, còn nhiều ý kiến khác nhau.
Hợp đồng dân sự phải được giao kết, sửa đổi, chấm dứt trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận giữa các bên ký hợp đồng. Mục đích ký kết 1 hợp đồng là để thực hiện một việc hoặc nhiều việc đã lên kế hoạch trước, hợp đồng này còn làm căn cứ để ký kết nhiều hợp đồng khác.
DT Luật lần này cho phép một bên trong hợp đồng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng nếu hoàn cảnh thay đổi cơ bản và nếu không đồng ý đàm phán lại thì có thể yêu cầu phân xử tại TA. Quy định như vậy thì khó đảm bảo các hợp đồng sẽ được thực hiện nghiêm túc, không đảm bảo các bên thực hiện được các kế hoạch mà mình đã vạch ra căn cứ trên các hợp đồng đã ký.
Tôi xin nêu ví dụ đơn giản, để xuất khẩu 1 lô hàng áo sơ mi, tôi phải ký hợp đồng mua đúng loại vải, nút, chỉ… nếu 1 đối tác ký hợp đồng bán nút áo bảo do hoàn cảnh thay đổi cơ bản không cung cấp được nút áo cho tôi theo thỏa thuận trong hợp đồng, thì làm sao tôi hoàn thành cái áo để xuất khẩu. Thiệt hại bên bán nút áo nếu phải tiếp tục thực hiện hợp đồng so với thiệt hại nếu hợp đồng xuất khẩu áo phải điều chỉnh hay bị hủy bỏ thì cái nào nghiêm trọng hơn.
Hay đối với một dự án bất động sản, khi giá nguyên vật liệu tăng lên, bên bán nhà lấy lý do hoàn cảnh thay đổi cơ bản yêu cầu bên mua ký lại hợp đồng vì nếu không, họ sẽ bị thua lỗ nặng trong khi nếu giá nguyên vật liệu giảm thì họ vẫn giữ các điều khoản trong hợp đồng. Như vậy có phù hợp hay không?
Việc cho phép TA án điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản sẽ bị một bên lợi dụng gây khó khăn cho bên kia khi họ không muốn thực hiện các cam kết trong hợp đồng. Đây là điều kiện để các doanh nghiệp thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi cố tình đưa các vụ việc ra TA.
Để TA sửa đổi nội dung hợp đồng nhằm cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản như trong DT Luật thì TA cần phải có thời gian tìm hiểu để quyết định là hoàn cảnh thay đổi có phải do nguyên nhân khách quan không; tại thời điểm giao kết hợp đồng các bên có lường trước được sự thay đổi hoàn cảnh hay không, hay việc tiếp tục hợp đồng mà không điều chỉnh nội dung có gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên không…
Nếu chờ đến lúc TA đưa ra được quyết định thật sự hợp tình, hợp lý thì thiệt hại về kinh tế, về uy tín của công ty do phải chờ đợi quyết định của TA dẫn đến sự chậm trễ trong công việc thì ai sẽ bù đắp vào.
DT BLDS (sửa đổi) có quy định trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, TA giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Chúng ta biết khi một bên đã không có khả năng thực hiện hợp đồng mới đưa ra TA, DT Luật lại quy định tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng thì làm sao quy định này có tính khả thi.
Trong hợp đồng thường đã có quy định các trường hợp bất khả kháng như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần, chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách của chính phủ…, 2 bên cũng có thể bổ sung vào các trường hợp khác như tỷ giá, giá cả biến động lớn, trường hợp mất điện hay lỗi do bên thứ ba… và quy định sẽ được 2 bên xử lý như thế nào trước khi ký kết hợp đồng.
Khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên bị ảnh hưởng sẽ được miễn một số trách nhiệm khi không thực hiện một số nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng gây ra. Ngoài ra, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng dẫn đến việc thực hiện hợp đồng sẽ không có lợi cho các bên thì các bên có thể chấm dứt việc thực hiện hợp đồng.
Trong thực tế, khi một bên trong hợp đồng gặp khó khăn thật sự đến mức không thể thực hiện được hợp đồng thì để hợp đồng được tiếp tục thực hiện, bên còn lại thường sẽ sẵn sàng chấp nhận việc 2 bên cùng đàm phán lại để điều chỉnh hợp đồng với mong muốn giảm thiểu thiệt hại, đảm bảo lợi ích 2 bên mà không cần sự can thiệp của TA hay bên thứ ba.
Trong giao kết hợp đồng việc giao kết bằng lời nói cũng được pháp luật công nhận. Hàng ngày chúng ta vẫn thực hiện hình thức này, dù khó khăn nhưng vì chữ tín chúng ta vẫn cố gắng thực hiện các cam kết. Nếu theo quy định điều 419 của DT Luật, một hợp đồng đã được xác lập bằng văn bản mà vẫn chưa đảm bảo sẽ được nghiêm túc thực hiện, thì theo tôi, khi luật đi vào cuộc sống, điều luật này sẽ bị lợi dụng để gây tổn hại đến lợi ích của các cá nhân, tổ chức, và cả các quan hệ dân sự trong xã hội. Vì vậy, tôi đề nghị Quốc hội xem xét khi quy định nội dung này chưa khả thi thì không đưa Điều 419 vào BLDS.
NGUYỄN VĂN CẢNH