Công tác bảo vệ môi trường tại các khu, cụm công nghiệp trong tỉnh: Cần được tăng cường hơn nữa
Vừa qua, Ðoàn giám sát (ÐGS) Ban Kinh tế và Ngân sách (KT-NS) HÐND tỉnh đã tiến hành giám sát tình hình triển khai thực hiện công tác bảo vệ môi trường (BVMT) tại các khu kinh tế (KKT), khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2014-2015. PV Báo Bình Ðịnh đã phỏng vấn ông Võ Thăng Long- Trưởng Ban KT-NS HÐND tỉnh, Trưởng ÐGS - xung quanh vấn đề này.
* Xin ông cho biết tình hình thực hiện công tác BVMT tại các KKT, KCN, CCN trên địa bàn tỉnh thời gian qua?
- Trên địa bàn tỉnh hiện có KKT Nhơn Hội và 3 KCN Phú Tài, Long Mỹ, Nhơn Hòa đã đi vào hoạt động, thu hút 256 dự án/214 doanh nghiệp (DN) đầu tư, trong đó có 151/214 DN đã đi vào hoạt động. Đồng thời, trên địa bàn còn có 40 CCN đang hoạt động, thu hút 769 dự án đăng ký đầu tư, trong đó có 711/769 dự án đã đi vào hoạt động.
Từ năm 2014 đến nay, công tác quản lý và BVMT tại các KKT, KCN, CCN trên địa bàn tỉnh được tăng cường và có nhiều chuyển biến tích cực theo các quy định của Luật BVMT năm 2014. Đồng thời, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương kịp thời xử lý các phát sinh, vướng mắc; từng bước hạn chế vấn đề ô nhiễm môi trường (ÔNMT), tránh gây ảnh hưởng tới đời sống dân cư, hạn chế đáng kể tình trạng khiếu nại, khiếu kiện về công tác BVMT.
Bên cạnh đó, các quy trình, thủ tục về thẩm định và phê duyệt hồ sơ môi trường được triển khai thực hiện khá chặt chẽ, đúng quy định. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BVMT; kiểm tra, kiểm soát ÔNMT và giải quyết khiếu nại về BVMT được chú trọng. Ý thức tuân thủ pháp luật về BVMT của các công ty đầu tư hạ tầng và các DN được nâng lên, góp phần BVMT chung.
* Còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn?
- Tuy đạt được những kết quả, song nhìn chung công tác BVMT tại KKT, KCN, CCN trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với các CCN. Bên cạnh các DN có ý thức chấp hành pháp luật về BVMT, vẫn còn một số DN xem trọng lợi nhuận, coi nhẹ công tác BVMT, chủ yếu quan tâm xử lý nước thải, xử lý chất thải rắn, ít quan tâm xử lý khí thải. Một số DN đi vào hoạt động chưa có hồ sơ môi trường, hoặc chưa thực hiện đầy đủ các nội dung BVMT như đã cam kết.
Việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các CCN còn nhiều khó khăn. Hiện toàn tỉnh có 33/40 CCN đi vào hoạt động mà không có hệ thống xử lý nước thải tập trung (chiếm 82,5%). Đồng thời, 7/40 CCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung, nhưng một số không phát huy được hiệu quả. Thậm chí, một số CCN không có quy hoạch chi tiết được duyệt vẫn đầu tư xây dựng hạ tầng, đi vào hoạt động.
Ngoài ra, công tác thu gom, ký kết hợp đồng xử lý chất thải nguy hại tại các KCN, CCN gặp rất nhiều khó khăn vì phải hợp đồng với các đơn vị có chức năng ở ngoài tỉnh; thu gom chậm, thời gian lưu trữ kéo dài hơn so với quy định, tiềm ẩn nguy cơ ÔNMT. Nguyên nhân là do hiện trên địa bàn tỉnh chưa có đơn vị xử lý chất thải nguy hại. Đồng thời, do ngân sách địa phương còn khó khăn nên kinh phí sự nghiệp môi trường vẫn chưa đáp ứng tỉ lệ 1% tổng chi ngân sách; việc phân bổ, sử dụng kinh phí này còn nhiều bất cập, nhất là ở cấp huyện.
* Vậy cần phải làm gì để công tác BVMT ở các KKT, KCN, CCN trên địa bàn tỉnh ngày càng hoàn thiện và đạt hiệu quả, thưa ông?
- Trên cơ sở kết quả giám sát, ĐGS HĐND tỉnh đã có một số đề xuất, đề nghị UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Sở TN-MT, Ban quản lý KKT tỉnh, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thị xã, thành phố thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT tại KKT, KCN, CCN trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức chấp hành Luật BVMT 2014 của chủ đầu tư hạ tầng và các DN. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực cán bộ quản lý môi trường (nhất là đối với cán bộ ở cấp huyện, xã). Tăng cường công tác phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan chức năng, UBND các huyện, thị xã, thành phố trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát định kỳ hoặc đột xuất việc chấp hành pháp luật về BVMT đối với chủ đầu tư hạ tầng và các DN trong các KKT, KCN, CCN, tránh chồng chéo. Kiên quyết xử lý nghiêm, kịp thời các hành vi vi phạm, tạo chuyển biến mới trong việc chấp hành các quy định về BVMT.
ĐGS HĐND tỉnh đề nghị UBND tỉnh xem xét, quan tâm tăng nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường theo tốc độ phát triển kinh tế tương ứng với nhiệm vụ quản lý nhà nước về BVMT ở địa phương. Có chính sách cụ thể của tỉnh nhằm khuyến khích xã hội hóa các nguồn đầu tư cho BVMT. Đa dạng hóa nguồn đầu tư cho môi trường. Quan tâm bố trí kinh phí, thu hút các DN đầu tư các công trình xử lý chất thải rắn, xử lý chất thải nguy hại tập trung. Xem xét có chính sách hợp lý hỗ trợ đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung tại các CCN ở các địa phương. Hỗ trợ các DN chuyển đổi công nghệ để xử lý triệt để ÔNMT.
Ngoài ra, ĐGS đề nghị UBND tỉnh và các sở, ngành chức năng rà soát, điều chỉnh hoặc xây dựng mới quy chế BVMT của KCN, CCN nhằm quy định rõ trách nhiệm BVMT của các DN. Đồng thời, chủ đầu tư các CCN phải xây dựng quy chế BVMT của CCN nhằm quy định rõ trách nhiệm BVMT của chủ đầu tư, của các DN trong CCN.
* Xin cảm ơn ông!
VIẾT HIỀN (Thực hiện)