Vì đất, mất tình
Cả 3 lần xét xử tại tòa, bà Ð.T.K. (SN 1938, TX An Nhơn) đều được HÐXX tuyên phần đất đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà. Song vợ chồng người em gái và em rể vẫn tiếp tục kháng cáo, khiến bà K. vẫn phải lụi cụi đi hầu tòa khi tuổi đã gần đất xa trời.
Tháng 10.1988, vợ chồng ông M. chuyển nhượng cho bà G. (chị ruột bà M.) một ngôi nhà tôn, mặt tiền 4m, nhà được lợp bằng 20 tấm tôn, có phần đất đi về phía sau 20m; đồng thời trong giấy chuyển nhượng có phần ghi chú “Nếu sau này bà G. không ở nữa thì nhượng lại cho ông M. chứ không được bán cho ai”.
Bà G. ở được 1 năm sau thì nhượng lại nhà đất cho bà K. (chị của bà M. và bà G.), với sự đồng ý của ông M. Trong giấy viết tay chuyển nhượng nhà giữa bà G. với bà K. (làm tháng 4.1990), ông M. có ghi và ký xác nhận: “Vì điều kiện gia đình tôi nhượng lại cho cháu B.V.L. (con trai bà K.) để sang nhượng theo giấy này làm gốc” với tổng diện tích đất 189m2, dài 31m, rộng 6m.
Bà K. ở tại phần nhà, đất trên ổn định cho tới năm 1993, thì nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện An Nhơn cấp, công nhận bà chỉ được sử dụng 85m2. Bà K. không đồng ý và yêu cầu điều chỉnh, bổ sung phần đất còn thiếu vào sổ. Kết quả kiểm tra hồ sơ lưu trữ tại UBND xã cho thấy, “Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất” của bà K. ghi ngày 8.7.1993 không có chữ ký của bà. Hồ sơ kê khai, đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất bà đang ở là do người khác lập. Chính vì vậy từ năm 1994 đến năm 2004, bà K. không chịu nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho mình.
Trong khi đó, năm 2010, vợ chồng ông M. cũng có đơn tranh chấp quyền sử dụng 90m2 đất thuộc bên hông và phía sau nhà bà K. (tức là riêng phần đất trong tài sản là nhà và đất mà ông đã sang nhượng cho bà G. trước đó và bà G. nhượng lại cho bà K.). Bằng chứng ông M. đưa ra là một giấy nhượng nhà giữa vợ chồng ông với bà G., được lập vào tháng 4.1989, có chữ ký bà G., nội dung là diện tích đất chuyển nhượng cho bà G. gắn với ngôi nhà quán chiều ngang 4m, chiều dài 20m tính từ lề đường phía Đông.
Như vậy, có đến 2 văn bản thể hiện việc sang nhượng nhà đất giữa vợ chồng ông M. với bà G.; trong đó giấy lập tháng 10.1988 ghi tài sản chuyển nhượng là ngôi nhà và phần đất, tổng diện tích khoảng 182m2 (giấy này do bà G. giao lại cho bà K., bà K. cung cấp cho tòa án); còn giấy lập tháng 4.1989 thì thể hiện ông M. chỉ nhượng ngôi nhà quán diện tích khoảng 80m2.
Vậy văn bản nào là đúng sự thật của việc giao dịch chuyển nhượng, trong khi ai cũng cho rằng mình đã trưng cầu giấy tờ thật. Sự việc trở nên khó xác minh hơn khi người liên quan là bà G. thì đã qua đời. Trong đơn khiếu nại giám đốc thẩm, vợ chồng ông M. cho rằng bà K. đã giả mạo nội dung xác nhận của mình trong hợp đồng chuyển nhượng nhà giữa bà G. với bà K. (lập tháng 4.1990) nên mới có 2 giấy như vậy.
Tuy nhiên, theo kết luận của Phòng Kỹ thuật hình sự CA tỉnh thì chữ ký, chữ viết trong giấy chuyển nhượng nhà giữa bà G. với bà K. chính là chữ của ông M. Mặt khác, theo quy định của Luật Đất đai hiện hành thì đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu mà chủ sử dụng đất không ký tên vào đơn thì coi như không hợp lệ. Do đó, việc bà K. mua nhà của bà G. năm 1990 và được giao quyền sử dụng 182,4m2 đất (diện tích thực tế) có nhà là phù hợp với pháp luật.
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được, tòa án các cấp đều bác đơn tranh chấp quyền sử dụng 90m2 đất ở cạnh nhà bà K. của vợ chồng ông M.
Mặc dù vậy, vợ chồng ông M. vẫn kiên quyết kháng cáo. Bà K. sụt sùi: “Tôi chỉ muốn cuối đời được yên thân thôi, nghĩ dù sao thì tình nghĩa chị em, một giọt máu đào hơn ao nước lã mà. Nhưng...”.
Là vợ liệt sĩ và bản thân là thương binh, bà K. đã được nhà nước hỗ trợ tiền xây nhà, nhưng vì có tranh chấp đất nên việc xây dựng nhà vẫn chưa được thực hiện từ nhiều năm nay. Và cũng chỉ vì tranh chấp mảnh đất mà gần 10 năm nay, chị em bà K. đã từ mặt nhau.
NHẬT LINH