Các ngành công nghiệp chủ lực:
Trăn trở để phát triển
Mấy năm gần đây, một số ngành công nghiệp chủ lực (CNCL) của tỉnh đã gặp không ít khó khăn, thách thức trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và thị trường, nên phát triển không mang tính ổn định, bền vững. Hiện nay, các ngành chức năng đang tập trung khắc phục các mặt hạn chế, tạo thế phát triển ổn định hơn cho các ngành công nghiệp này.
Hiện nay, tình hình kinh tế thế giới và trong nước vẫn còn khó khăn, tuy có dấu hiệu hồi phục song rất chậm. Do đó, hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực tiếp tục bị ảnh hưởng.
Chế biến thủy sản xuất khẩu hiện đang gặp khó khăn về nguyên liệu.
- Trong ảnh: Chế biến cá xuất khẩu tại Công ty cổ phần Thủy sản Bình Định.
Thiếu tính bền vững
Trong đó có những ngành CNCL của tỉnh (chế biến gỗ xuất khẩu, chế biến thủy sản xuất khẩu, chế biến hạt điều xuất khẩu, dệt may…). Từ đầu năm đến nay, giá trị sản xuất công nghiệp (SXCN) và kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của những ngành này tăng rất thấp, thậm chí còn giảm so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, 5 tháng đầu năm 2013, KNXK của ngành chế biến gỗ chỉ đạt trên 90 triệu USD, giảm 4,8%; hàng dệt may đạt trên 11,7 triệu USD, giảm 9,4%; riêng ngành chế biến thủy sản đạt trên 20 triệu USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2012.
Trong số những nguyên nhân làm cho các ngành CNCL của tỉnh tăng trưởng thấp, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, vẫn là những khó khăn cố hữu, đã được đề cập nhiều lần, được nhìn thấy khá rõ, nhưng việc khắc phục hầu như chưa đạt hiệu quả. Lâu nay các ngành CNCL của tỉnh chỉ mới dựa vào những lợi thế sẵn có để phát triển, chưa xây dựng được những kế hoạch, chương trình đầu tư dài hơi và hiệu quả. Phần lớn sản phẩm của các ngành CNCL còn ở dạng chế biến thô, giá trị gia tăng còn thấp, sức cạnh tranh còn yếu ở cả thị trường trong và ngoài nước. Việc xây dựng thương hiệu hàng hóa vẫn còn nhiều hạn chế, một số mặt hàng xuất khẩu vẫn còn mang thương hiệu của các nhà phân phối nước ngoài.
“Từ đầu năm đến nay, giá trị SXCN và KNXK của những ngành này tăng rất thấp, thậm chí còn giảm so với cùng kỳ năm trước”
Ngoài ra, sự phát triển của các ngành CNCL còn mang tính tự phát, chưa có định hướng phát triển rõ ràng, nên các doanh nghiệp (DN) thường xuyên gặp khó khăn vì thiếu nguyên liệu chế biến. Ông Mai Ngọc Sơn, Phó Giám đốc Công ty cổ phần Đông lạnh Quy Nhơn, cho biết: “Do nguồn nguyên liệu trong tỉnh không đủ, nên thời gian qua DN chúng tôi phải thu mua nguyên liệu ở tỉnh bạn về chế biến. Điều này đã làm tăng chi phí, nên sức cạnh tranh của sản phẩm đã bị giảm”.
Hiện năng lực chế biến và cấp đông của các DN chế biến thủy sản xuất khẩu ở tỉnh ta đạt 12.000 tấn sản phẩm/năm, nhưng nguyên liệu trong tỉnh chỉ mới đáp ứng từ 30-40% công suất. Đã vậy, hiện việc quy hoạch vùng nguyên liệu và phương án chuyển đổi nuôi trồng chưa đạt yêu cầu; việc quản lý sản xuất tôm giống, nuôi tôm thương phẩm, công tác phòng dịch kém; phương thức tổ chức thu mua nguyên liệu của các DN chưa hợp lý… Điều này làm cho các DN chế biến thủy sản xuất khẩu sẽ tiếp tục gặp khó khăn về nguyên liệu.
Tìm giải pháp tháo gỡ
Theo quy hoạch phát triển đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020, ngành chế biến gỗ sẽ tiếp tục đầu tư chiều sâu hoặc đầu tư mới một số nhà máy sản xuất chế biến gỗ cao cấp quy mô lớn tại khu công nghiệp Phú Tài và Long Mỹ để chuyển sang sản xuất đồ gỗ nội thất. Đồng thời, phấn đấu đến năm 2015 đưa tổng công suất thiết kế các nhà máy chế biến gỗ lên 300 ngàn m3/năm, trong đó, sản phẩm gỗ nội thất chiếm từ 40% trở lên.
Đối với ngành chế biến thủy sản, giai đoạn 2015-2020 sẽ phát huy hết 100% công suất của các nhà máy hiện có; đầu tư xây dựng mới một số nhà máy chế biến thủy sản ở Phù Cát và Hoài Nhơn, với tổng công suất 5.000-6.000 tấn/năm và 1 nhà máy ở Quy Nhơn với công suất khoảng 4.000 tấn/năm. Đối với ngành chế biến đá, phát triển công suất khai thác đến năm 2015 đạt 20.000 m3/năm, đến năm 2020 đạt 25.000 m3/năm và nâng công suất chế biến đá ốp lát lên 380 ngàn - 450 ngàn m2/năm…
Quy hoạch là vậy, song để thực hiện được quả là không đơn giản, bởi sản xuất, kinh doanh có phát triển thì mới có thể mở rộng sản xuất để tăng hiệu quả. Do đó, lãnh đạo tỉnh đã chỉ đạo các ngành hữu quan cần tập trung tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu, cụm công nghiệp để tạo điều kiện cho nhà đầu tư, DN đầu tư mở rộng sản xuất. Đồng thời, tỉnh tiếp tục chỉ đạo phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng bền vững; xây dựng và phát triển vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, chất lượng cao; thực hiện tốt hơn mối liên kết giữa sản xuất nguyên liệu với nhà máy chế biến và thị trường tiêu thụ.
Theo ông Lê Văn Thảo, Chủ tịch Hiệp hội Khai thác và chế biến đá Bình Định, để hỗ trợ các DN chế biến đá granite trên địa bàn tỉnh, Hiệp hội đã kêu gọi các DN thành viên liên kết lại, tham gia sâu vào phân công lao động xã hội, nhằm chuyên môn hóa cao. Ngoài ra, Hiệp hội cũng khuyến cáo các DN trong ngành tích cực đầu tư công nghệ, thiết bị mới để tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm đá Bình Định trên thị trường. Hiệp hội cũng đã xây dựng website riêng để quảng bá, giới thiệu hình ảnh, sản phẩm mới của các DN ngành đá Bình Định đến với khách hàng và cung cấp thông tin về thị trường cho các hội viên.
Đối với ngành chức năng, ông Nguyễn Kim Phương, Giám đốc Sở Công Thương, cho biết: “Trong thời gian đến, Sở sẽ phối hợp với các ngành chức năng xây dựng cơ chế hỗ trợ, tạo điều kiện cho các sản phẩm CNCL, đặc biệt quan tâm đến chương trình xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Việc giới thiệu sản phẩm hàng hóa, đặc biệt là sản phẩm CNCL được tiếp cận với thị trường các tỉnh bạn cũng là một trong những việc mà Sở Công Thương đang triển khai. Tuy nhiên, ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, các DN cũng cần xây dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh dài hạn, nhất là phải có kế hoạch đầu tư cải tiến trang thiết bị, công nghệ và tập trung đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu thực tế”.
NGỌC THÁI