Phối hợp quản lý thu thuế tài nguyên
Ngày 20.11.2015, Thông tư 152/2015/TT-BTC ngày 2.10.2015 hướng dẫn về thuế tài nguyên (thay thế cho Thông tư số 105/2010/TT-BTC ngày 23.7.2010 của Bộ Tài chính) có hiệu lực thi hành. Thông tư này quy định những thay đổi rất căn bản về giá tính thuế, thuế suất và sản lượng tính thuế tài nguyên.
Mới đây, tại TP Quy Nhơn, Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) đã tổ chức hội nghị tập huấn Thông tư 152 cho lãnh đạo cục thuế 18 tỉnh khu vực phía Nam.
Nhiều thay đổi
Tại hội nghị, đại diện Tổng cục Thuế cung cấp các thông tin và những điểm mới đáng lưu ý của Thông tư 152 hướng dẫn về đối tượng chịu thuế; người nộp thuế; căn cứ tính thuế; miễn, giảm thuế tài nguyên và tổ chức thực hiện… Theo đó, đối tượng chịu thuế tài nguyên được quy định tại Thông tư 152 bao gồm 7 nhóm: khoáng sản kim loại; khoáng sản không kim loại; sản phẩm rừng tự nhiên; hải sản tự nhiên; nước thiên nhiên; yến sào thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên khác.
Thông tư 152 cũng nêu rõ, căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế tài nguyên và thuế suất thuế tài nguyên. Trong đó, về sản lượng tài nguyên dùng làm căn cứ tính thuế tài nguyên, bổ sung cách tính đối với một số trường hợp đặc biệt. Căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế tài nguyên, thuế suất thuế tài nguyên. Việc ấn định thuế tài nguyên được thực hiện căn cứ vào cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế, phù hợp với các quy định về ấn định thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Về thuế suất thuế tài nguyên, Bộ Tài chính quy định, thuế suất thuế tài nguyên làm căn cứ tính thuế tài nguyên đối với từng loại tài nguyên khai thác được quy định tại biểu mức thuế suất thuế tài nguyên ban hành kèm theo Nghị quyết số 712/2013/UBTVQH13 ngày 16.12.2013 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản sửa đổi, bổ sung.
Theo ông Cao Anh Tuấn - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế - một trong những điểm mới quan trọng của Thông tư 152 chính là việc bổ sung đối tượng không chịu thuế tài nguyên như: nước thiên nhiên dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp và nước biển để làm mát máy. Đồng thời, quy định cụ thể cách xác định sản lượng tính thuế tài nguyên đối với tài nguyên không xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thực tế của tài nguyên khai thác do chứa nhiều chất, tạp chất khác nhau và được bán ra sau khi sàng tuyển, phân loại.
Chú trọng cơ chế phối hợp
Với Thông tư 152, Bộ Tài chính có quy định mới về cơ chế phối hợp giữa cơ quan thuế và tài nguyên-môi trường trong việc đối chiếu sản lượng tài nguyên đã khai thác và sản lượng tài nguyên đã khai nộp thuế trong năm của từng mỏ tại địa phương để tăng cường quản lý sản lượng tài nguyên khai thác tính thuế, tránh thất thu thuế. Ông Nguyễn Việt Xuân, Phó Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Quảng Nam cho hay, tình trạng thất thu thuế tài nguyên không phải là cá biệt khi một số doanh nghiệp (DN) hoạt động trong lĩnh vực khai thác vàng ở địa phương này không thực hiện công khai đầy đủ hóa đơn, chứng từ kế toán, buộc cơ quan chức năng phải “định giá”.
Ông Phạm Minh Kiên, Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Thừa Thiên - Huế, cho rằng giá tính thuế lâu nay vẫn có tình trạng mâu thuẫn giữa giá hóa đơn với bảng giá do UBND tỉnh quy định; dẫn đến tình trạng thất thu, hay phản ứng của DN về mức thuế tài nguyên. Bà Lê Thị Mai, Phó Vụ trưởng Vụ Kê khai và Kế toán thuế (Tổng cục Thuế) cho biết sẽ sớm trình Tổng cục và Bộ Tài chính bảng giá tính thuế tài nguyên để làm cơ sở cho các tỉnh xây dựng. “Mục tiêu ban hành khung giá phải đảm bảo sát với giá thị trường, không có chênh lệch quá lớn giữa các nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý - hóa giống nhau giữa các địa phương trong cả nước” - bà Mai khẳng định.
Theo ông Phạm Ngọc Hải, Phó Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Bình Định, vấn đề cơ bản nhất của thuế tài nguyên là quản lý về sản lượng khai thác. Thông tư 152 đã hướng dẫn Cục Thuế phối hợp với Sở TN&MT và Sở Công Thương xác định sản lượng khai thác. Cụ thể, khi DN nộp hồ sơ quyết toán khai thuế tài nguyên thì trong 5 ngày cơ quan Thuế chuyển sang Sở TN&MT để tham gia ý kiến.
“Vấn đề đặt ra là sự hồi đáp của cơ quan TN&MT sẽ khó đáp ứng được yêu cầu về thời gian. Như vậy, cần có cơ chế nêu rõ, nếu quá thời hạn mà cơ quan TN-MT không có ý kiến thì coi như đồng ý thông qua. Chúng tôi cũng kiến nghị Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ TN&MT ra thông tư liên tịch quy định quy chế phối hợp trong việc quản lý sản lượng khai thác, làm căn cứ cho Cục Thuế, các Sở TN&MT, Công Thương tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng quy định quản lý sản lượng tài nguyên. Đây cũng là căn cứ để tỉnh ban hành khung giá tính thuế tài nguyên” - ông Phạm Ngọc Hải đề đạt.
Về công tác quản lý sản lượng tài nguyên, có nhiều ý kiến đề cập đến vấn đề phối hợp giữa các ngành Thuế, TN&MT. Ông Cao Anh Tuấn cho hay, Tổng cục Thuế sẽ có công văn gửi Bộ TN&MT, Bộ Công Thương để ban hành chỉ đạo và đồng thời có văn bản đến UBND các tỉnh, thành phố để chỉ đạo các ngành trong công tác phối hợp thực hiện.
THU HIỀN