TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI
Góp ý Dự thảo Luật Việc làm
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động (NLÐ) để bảo đảm cuộc sống và phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho NLÐ, bảo đảm quyền bình đẳng về việc làm cho mọi NLÐ là trách nhiệm của mọi quốc gia. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII đã cho ý kiến lần đầu về Dự thảo Luật Việc làm. Dưới đây là nội dung phát biểu góp ý Dự thảo Luật Việc làm của đại biểu Phạm Thị Thu Hồng - Ðoàn ÐBQH tỉnh Bình Ðịnh.
Trước tiên tôi tán thành sự cần thiết ban hành Luật Việc làm, vì đây là một vấn đề được toàn xã hội quan tâm, là chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng đối với một đất nước, nhưng đến nay chưa có một đạo luật riêng để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội về việc làm. Tôi tham gia góp ý 3 vấn đề cơ bản:
Về chính sách tín dụng tạo việc làm
Nội dung này được quy định tại Điều 10 của Dự án (DA) Luật Việc làm đã thể hiện tương đối đầy đủ, cụ thể các chính sách cho vay vốn để tạo điều kiện cho NLĐ tự tìm việc làm và giải quyết việc làm bền vững. Tuy nhiên, ngoài các đối tượng được nhà nước ưu tiên thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi như lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số (trong dự thảo Luật quy định người dân tộc ít người là chưa thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác), NLĐ thuộc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự được quy định tại Điều 10, tôi đề nghị cần bổ sung các nhóm đối tượng là NLĐ thuộc hộ nghèo và lao động khu vực nông thôn tham gia đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cũng được ưu tiên hỗ trợ vay vốn. Vì các chính sách tín dụng hiện hành đã đề cập khá đầy đủ đến các đối tượng này.
Với Quỹ Quốc gia về việc làm, dự thảo Luật đã cụ thể hóa các quy định khung tại Chương II, nội dung việc làm của Bộ luật lao động. Tuy nhiên, tôi còn băn khoăn về tính khả thi của Quỹ Quốc gia về việc làm theo như quy định tại DA luật. Vì hiện nay, sau hơn 10 năm triển khai, doanh số cho vay từ quỹ này đạt hơn 16.000 tỉ đồng với gần 1,3 triệu lượt khách hàng vay vốn, tạo việc làm cho 2,6 triệu lao động, hàng năm ngân sách nhà nước cũng đã bổ sung từ 200 - 300 tỉ đồng, nhưng riêng năm 2013 chỉ bổ sung 46 tỉ đồng nên chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn để tạo việc làm cho các đối tượng trong diện được vay. Do đó, để điều này khả thi trong thực tế, Chính phủ cần rà soát lại các quy định thủ tục cho vay hiện hành còn nhiều bất cập, như quy định về mức vay bình quân chưa gắn với nhu cầu của các DA, quy định về việc giao trách nhiệm cho Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương tổ chức thực hiện cho vay từ khâu hướng dẫn, xây dựng DA đến khi giải ngân, xem xét số nợ mà không có sự phối hợp của các cơ quan liên quan, dẫn đến các DA cho vay không đảm bảo hiệu quả mục tiêu của chương trình. Chính phủ cũng cần phải thực hiện cấp bổ sung kinh phí theo quy định đảm bảo để Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay đến tất cả các đối tượng được ưu tiên vay vốn.
Tôi cũng đề nghị không giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể như quy định tại Khoản 3, Điều 10 mà cần tổng kết thực tiễn và đánh giá việc thực hiện chính sách tín dụng về việc làm trong thời gian qua để thấy những mặt mạnh, cũng như những hạn chế. Từ đó kế thừa và phát triển các quy định phù hợp đã đi vào cuộc sống và ghi nhận ngay trong dự thảo Luật này để đảm bảo tính cụ thể và tạo thuận lợi hơn trong việc áp dụng luật trong thực tiễn.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các chương trình, DA phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với kế hoạch tạo việc làm. Tuy nhiên, chương trình, DA khi triển khai và gắn với quy hoạch nguồn nhân lực cũng như kế hoạch tạo việc làm cho NLĐ, dẫn đến tình trạng nhiều chương trình, DA đưa vào hoạt động không tuyển được lao động hoặc tuyển được, nhưng lao động không đáp ứng nhu cầu, đồng thời cũng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện của các chương trình, DA. Do đó, tôi đề nghị Ban soạn thảo xem xét, bổ sung quy định bắt buộc yêu cầu giải quyết việc làm cho NLĐ đối với các chương trình, DA.
Về đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia
Tôi tán thành cần phải có quy định về đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia (KNNQG)trong DA Luật việc làm. Ngay trong Chương IX của Luật Dạy nghề đã quy định tiêu chuẩn KNNQG là cơ sở để NLĐ phấn đấu nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất kinh doanh, và để bố trí công việc, trả lương hợp lý cho NLĐ. Quy định này tạo điều kiện để NLĐ không phân biệt loại hình, phương thức đào tạo, kể cả tự rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm đều được công nhận cấp độ kỹ năng nghề nghiệp và để có đủ điều kiện dịch chuyển vào các vị trí việc làm và được trả lương theo cấp độ KNNQG đã được công nhận. Việc đánh giá này cũng được mở rộng đối với mọi người, không phân biệt đã có hay không có chứng chỉ đào tạo theo quy định của Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục và trên cơ sở tự nguyện của NLĐ.
Việc đánh giá cấp chứng chỉ KNNQG phải do tổ chức độc lập thực hiện trên cơ sở bộ tiêu chuẩn KNNQG do cấp có thẩm quyền ban hành. Vấn đề đặt ra là bộ tiêu chuẩn này phải có sự tham gia thẩm định của chủ sử dụng lao động. Đây cũng là một giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng lao động và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Đồng thời, tôi cũng đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu sắp xếp các khoản đã được quy định tại Điều 22 cho phù hợp hơn, theo trình tự là đảm bảo quy tắc cơ bản, là sự tự nguyện và kỹ năng thực hành công việc của NLĐ khi tham gia đánh giá cấp chứng chỉ KNNQG.
Về bảo hiểm thất nghiệp
Về Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được quy định tại Chương VI, tôi đồng tình với tên gọi BHTN theo như Tờ trình của Chính phủ, vì BHTN là bảo hiểm ngắn hạn, là một chính sách của thị trường lao động gắn với chính sách hỗ trợ tạo việc làm.
Trên thực tế, qua hơn 4 năm thực hiện chính sách BHTN còn hạn chế, chưa thể hiện đúng chức năng và vai trò là chính sách bảo đảm toàn diện cho NLĐ khi bị mất việc làm và các quy định pháp luật hiện hành. BHTN chỉ mới dừng lại ở việc hỗ trợ NLĐ sau khi họ bị mất việc làm, giải quyết hậu quả thất nghiệp mà chưa có chính sách duy trì việc làm, ngăn ngừa, hạn chế thất nghiệp, để khắc phục hạn chế này thì các chế độ BHTN đã được mở rộng hơn so với chính sách BHTN hiện hành. Tôi cũng đồng tình với việc bổ sung thêm chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ đang làm việc tại doanh nghiệp gặp khó khăn, suy giảm kinh tế, hoặc vì lý do bất khả kháng buộc phải thay đổi lại cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất kinh doanh.
Về đối tượng tham gia BHTN, tôi cho rằng việc mở rộng này là cần thiết. Tuy nhiên cũng cần phải xem xét đối tượng tham gia BHTN đối với NLĐ không có quan hệ lao động và nên chăng trước mắt chỉ điều chỉnh các đối tượng tham gia BHTN như các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hiện hành.
SỸ NGUYÊN (tổng hợp)
3 vấn đề: (1) chính sách tín dụng tạo việc làm, (2) đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia (3) bảo hiểm thất nghiệp không phải là những vấn đề căn cơ quan trọng liên quan đến chính sách lao động và việc làm. Bởi vì: Sự gia tăng nhanh chóng nguồn lao động ở Việt Nam làm cho vấn đề giải quyết việc làm trở nên ngày càng cấp thiết. Cho dù nguồn vốn hữu hình tăng lên nhanh chóng theo quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên vẫn không thể giải quyết được vấn đề này. Tại sao như vậy ? 1- Thu hút lao động bằng thực hiện công nghiệp hóa: Trong công nghiệp chỉ mới tính đến số việc làm trực tiếp được tạo ra. Vấn đề tạo thêm những việc làm gián tiếp có thể trông chờ vào những khu vực liên quan tới khu vực công nghiệp, chẳng hạn như hoạt động phân phối sản phẩm công nghiệp, hoạt động nông nghiệp và hoạt động khai thác phục vụ cho công nghiệp. Lao động có thu nhập cao trong lĩnh vực công nghiệp thường tạo ra những việc làm thêm. Nguyên nhân là vì họ muốn có thêm tiền để đáp ứng ngày càng cao hơn
Việt nam được đánh giá là Quốc gia có tiềm năng lao động dồi dào, chi phí nhân công rẻ. Tuy nhiên, các mối quan hệ xã hội về việc làm không chỉ cơ bản ở 3 yếu tố đó là chính sách tín dụng, Chứng chỉ nghề cấp quốc gia, và chính sách bảo hiểm thất nghiệp mà vấn đề cơ bản nhất ở đây chính là yếu tố " Cung và Cầu hàng hóa". Một mối quan hệ sản xuất được thiết lập đó là : Người lao động qua tư liệu sản xuất-------->. Hàng hóa-------> Tiêu thụ ---------> Lợi nhuận -------> Người lao động. Trong khi đó Người lao động được đào tạo nghề tại các trường Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học trong nước ra trường trong tay vẫn có một bằng Nghề hẳn hoi, vẫn có thể làm việc được trong các Doanh nghiệp lớn thì Đa số lại Thất nghiệp hoặc làm trái nghề ngày càng cao. Có thể chính sách tín dụng thực hiện tốt công tác giải ngân hỗ trợ cho người lao động để giải quyết việc làm nhưng người lao động làm ra sản phẩm, hàng hóa thì tiêu thụ ở đâu? Ai là người đứng ra bảo lãnh việc sản xuất hàng hóa