Góp ý Dự án Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII đã cho ý kiến lần đầu về Dự án (DA) Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật (BV-KDTV). Dưới đây là những nội dung chính trong phát biểu góp ý của đại biểu Nguyễn Văn Cảnh - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Định - về DA luật này.
Tôi nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật BV-KDTV nhằm góp phần bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường (BVMT), phát triển bền vững kinh tế-xã hội. Xin được nêu một số vấn đề như sau:
Xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật
Theo Báo cáo của Chính phủ, hàng năm có hàng chục ngàn tấn bao gói các loại thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) thải ra môi trường, trong đó có nhiều loại gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Theo quy định của Luật, việc gom và xử lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng sẽ gây tốn kém cho ngân sách và công sức của địa phương. Để giảm bớt chi phí thu gom, xử lý bao gói thuốc BVTV, khuyến khích nhà sản xuất (NSX) sử dụng loại bao bì tái chế tái sử dụng, tôi xin đề xuất giải pháp như sau:
Chúng ta đã có quy định về ký quỹ phục hồi môi trường (PHMT) đối với các DA mà sau khi kết thúc cần phải PHMT. Như vậy, đối với các NSX, nhà nhập khẩu thuốc BVTV, cũng cần thực hiện nghĩa vụ tương tự, là ký quỹ BVMT. Việc ký quỹ được thực hiện như sau:
Đối với những loại bao bì nếu không thu hồi sẽ gây ô nhiễm môi trường, NSX sẽ nộp một khoản phí BVMT cho cơ quan quản lý nhà nước trước khi xuất bán ra thị trường. Ví dụ, một thùng thuốc diệt cỏ trước khi xuất bán NSX sẽ nộp phí BVMT là 50.000 đồng; 1.000 thùng phải nộp phí 50 triệu đồng. Nếu NSX bán ra thị trường thì sẽ cộng phí này vào giá bán cho người tiêu dùng (NTD) và trên mỗi thùng sẽ in phí BVMT là 50.000 đồng.
Sau khi NTD sử dụng xong, sẽ đem thùng bao bì thuốc trả lại cho NSX để lấy lại 50.000 đồng, và theo định kỳ NSX sẽ được cơ quan quản lý nhà nước trả lại số tiền theo số thùng bao bì đã thu gom. Như vậy, có thể thấy rằng 50.000 đồng ứng trước trên mỗi thùng thuốc BVTV của ai lại trả về với người đó, thùng chứa thuốc thì lại trở về với NSX, không bị vứt bừa bãi gây ô nhiễm môi trường.
Tất nhiên quy trình sẽ phức tạp hơn những gì tôi vừa trình bày, vì còn trách nhiệm của các đại lý trung gian phát sinh về lãi suất đối với số tiền mà NSX phải trả cho NTD mà chưa nhận được tiền ký quỹ hay các NSX, nhà phân phối phải có kho để chứa các thùng mà NTD trả lại, chi phí vận chuyển. Các cơ quan nhà nước cũng cần nghiên cứu tổ chức hướng dẫn cho các NSX, nhà phân phối và NTD cách thức tính phí, quản lý phí như thế nào để áp dụng vào thực tế được thuận lợi. Tuy nhiên, chi phí cho kho chứa, vận chuyển và lãi suất thì NSX hay nhà phân phối sẽ tự cân đối vào giá bán của mình. Còn đối với Nhà nước thì lãi suất cho số tiền ký quỹ BVMT sẽ nhỏ so với chi phí khắc phục, xử lý môi trường.
Tôi tin rằng nếu phương pháp này triển khai tốt thì sẽ không còn thùng chứa thuốc BVTV nào vứt bừa bãi, vì mỗi thùng đều có giá trị quy ra tiền, người sử dụng (NSD) hay người dân nào cũng có thể lấy để đổi thành tiền với giá trị được in trên thùng. Vì vậy, đề nghị bổ sung vào các điều, khoản liên quan đến nghĩa vụ của NSX tại Điều 62, như NSX có nghĩa vụ nộp phí BVMT, có trách nhiệm bố trí các điểm thu gom bao bì thuốc BVTV và thanh toán tiền theo giá trị in trên bao bì cho NSD, và quyền của NSD là được nhận lại số tiền in trên bao bì khi trả lại bao bì cho người bán hoặc người đại diện cho NSX.
Về một số điều, khoản cụ thể
Tại khoản 3, Điều 4 có quy định nguyên tắc hoạt động BV-KDTV là hạn chế sử dụng thuốc BVTV, từng bước loại bỏ thuốc BVTV độc hại cao cho con người và môi trường, theo tôi là chưa hợp lý. Vì đã biết độc hại cao cho con người thì không phải từng bước loại bỏ mà phải bỏ ngay lập tức hoặc có cách để hạn chế không được sử dụng vượt mức an toàn mới phù hợp.
Điều 7, đối với quy định về hệ thống cơ quan BV-KDTV, tôi đồng ý với đề nghị của Ủy ban Khoa học-Công nghệ-Môi trường là đối với các xã có tỉ trọng sản xuất nông nghiệp lớn phải bố trí một cán bộ chuyên môn theo dõi về nông nghiệp để được chuyên môn hóa, hiệu quả, tiết kiệm chi phí cho nông dân, hạn chế sử dụng thuốc BVTV gây ô nhiễm môi trường và góp phần bảo đảm kiểm soát được an toàn thực phẩm.
Tại khoản h, Điều 64 quy định: khi phát hiện thuốc của cơ sở buôn bán không đảm bảo các yêu cầu theo quy định, cơ sở buôn bán có trách nhiệm thông báo và thu hồi ngay toàn bộ thuốc đó trên thị trường là không khả thi. Vì cơ sở buôn bán thì không có khả năng để thu hồi toàn bộ thuốc trên thị trường, mà chỉ quy định trách nhiệm của họ là thu hồi số thuốc mình đã bán ra và thông báo cho cơ sở sản xuất.
Trong Luật có quy định tại Điều 62, quyền và nghĩa vụ của cơ sở sản xuất thuốc BVTV; Điều 64, quyền và nghĩa vụ của cơ sở buôn bán thuốc BVTV, nhưng lại không quy định một điều của chủ thể quan trọng đó là NSD. Vì vậy tôi đề nghị có một điều quy định về quyền và nghĩa vụ của NSD thuốc BVTV và lấy một số khoản từ Điều 72 vào điều này.
Tại khoản 2, Điều 71 quy định về nhãn mác của thuốc BVTV, cần bổ sung thêm 2 điểm. Thứ nhất là đối với thuốc nhập khẩu thì nhãn mác phải được dịch lại đúng theo nghĩa của các nhãn mác đã được in trên thuốc nhập khẩu, trong đó có nội dung hướng dẫn cảnh báo và ngày hết hạn. Thứ hai là phải có thông tin của NSX hoặc nhà nhập khẩu với địa chỉ và số liên lạc để người sử dụng có thể liên lạc được khi cần hướng dẫn hoặc khắc phục sự cố.
SỸ NGUYÊN (Tổng hợp)