Cần khai thác, sử dụng nguồn nước ngầm hợp lý
Từ đầu năm đến nay, thời tiết nắng nóng kéo dài đã gây ra tình trạng hạn hán, thiếu nước sản xuất và nước sinh hoạt trên địa bàn tỉnh. Trong khi đó, việc tìm nguồn nước ngầm và biện pháp khai thác nguồn nước ngầm phục vụ chống hạn và sinh hoạt gặp nhiều khó khăn. Hiện UBND tỉnh và các sở, ngành chức năng rất quan tâm đến các biện pháp khai thác, sử dụng nguồn nước ngầm hợp lý và hiệu quả.
Nhiều nơi thiếu nước
Theo Trung tâm Khí tượng thủy văn (KTTV) Bình Định, trong quý I.2013, tổng lượng mưa ở khu vực miền núi trong tỉnh khoảng 117/159mm, chỉ đạt 73% so với trung bình nhiều năm (TBNN). Dự báo đến tháng 8.2013, lượng mưa sẽ còn ít hơn; tổng lượng mưa ở mức thấp hơn đến xấp xỉ TBNN, phổ biến từ 300 - 450mm ở vùng đồng bằng (TBNN 350 - 450 mm), 550 - 650mm ở vùng núi (TBNN 650 - 750mm). Mực nước các sông có xu thế giảm chậm và duy trì ở mức thấp hơn TBNN.
Theo tổng hợp của cơ quan chức năng, hiện toàn tỉnh có 110/161 hồ chứa nước hết nước. Trong đó, Công ty Khai thác công trình thủy lợi có 3/15 hồ hết nước; lượng nước 11 hồ chứa nước còn lại (không kể hồ Định Bình) chỉ bằng 29% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, tại các huyện trên địa bàn tỉnh có 107/146 hồ hết nước, lượng nước còn lại bằng 40% so với cùng kỳ năm 2012. Qua khảo sát thực tế và báo cáo của các địa phương về tình hình nắng hạn năm 2013, Trung tâm Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn đã xác định toàn tỉnh có 11.386 hộ gồm 45.544 người có nguy cơ thiếu nước sinh hoạt, nhiều nhất là Tuy Phước, Hoài Nhơn, Quy Nhơn, Vân Canh, Phù Cát, Phù Mỹ, An Nhơn.
Trong tình hình thiếu nước tưới và nước sinh hoạt, việc tìm nguồn nước ngầm và biện pháp khai thác nước ngầm phục vụ chống hạn và nước sinh hoạt gặp nhiều khó khăn. Ông Đinh Văn Tiên - Phó Giám đốc Sở TN-MT, Giám đốc BQL Dự án Nâng cao năng lực đánh giá và quản lý tài nguyên nước (DA CAPAS) tỉnh - cho biết: Đến nay, diện tích điều tra cơ bản nước ngầm trên địa bàn tỉnh chỉ mới được thực hiện tại Quy Nhơn, Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ và Hoài Nhơn; còn khu vực phía Tây chỉ mới điều tra, đánh giá nước ngầm ở thị trấn Vân Canh. Công tác điều tra cơ bản nguồn nước ngầm trên địa bàn tỉnh chỉ dừng lại ở mức độ mang tính phát hiện và dự báo trữ lượng nước; trữ lượng, chất lượng nước từ các kết quả điều tra chủ yếu mang tính dự báo, tham khảo.
Tại một số địa phương trong tỉnh còn xảy ra hiện tượng xâm nhập mặn và ô nhiễm tầng nước ngầm. Kết quả quan trắc chất lượng nước ngầm do Sở TN-MT thực hiện tại 33 điểm cho thấy: Có 45% mẫu phân tích có chỉ tiêu Coliform (Coliform là một nhóm vi khuẩn rất phổ biến, gây tiêu chảy, có thể tìm thấy ở mọi nơi, kể cả trong đất, nước sông, nước ao hồ, rau cải, và trong phân động vật) vượt quy chuẩn cho phép từ 2 đến 7 lần... Bên cạnh đó là tình trạng ô nhiễm Fluor (một trong những nguyên nhân khiến men răng hỏng có liên quan nhiều đến chất fluor có trong nguồn nước dùng hằng ngày chưa đạt tiêu chuẩn) trong nước ngầm tại một số xã của 2 huyện Tây Sơn, An Nhơn và hiện tượng ô nhiễm Asen (còn gọi là thạch tín, một chất rất độc, độc gấp 4 lần thủy ngân) tại một số khu vực thuộc các huyện An Nhơn, Hoài Nhơn, Phù Mỹ.
Cần có biện pháp khai thác hợp lý
Ông Đinh Văn Tiên cho biết: Trước thực trạng thiếu nước sản xuất và nước sinh hoạt, Sở TN-MT đã nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nhằm khai thác, sử dụng nguồn nước ngầm một cách hợp lý, hiệu quả. Về biện pháp chung, Sở TN-MT tạm phân thành 3 vùng cấp nước ngầm, trong đó vùng I gồm khu vực đồng bằng và trung du thuộc địa phận huyện An Nhơn, Phù Cát, Hoài Nhơn, Tuy Phước và ven các sông như Lại Giang, sông Côn; vùng II là khu vực miền núi (Vân Canh, Tây Sơn, Vĩnh Thạnh, An Lão, Hoài Ân) và vùng Tây Phù Cát; vùng III là khu vực đồng bằng ven biển và hải đảo.
Đối với vùng I, giải pháp cơ bản là dùng hình thức giếng khoan (khoan tay, khoan máy nhỏ lẻ) và cấp nước sinh hoạt tập trung kết hợp xử lý bằng bể lọc cho từng cụm dân cư nhỏ, vừa. Riêng vùng ven các sông lớn thì dùng hệ thống xử lý nước mặt. Đối với vùng II, nên dùng hệ thống cấp nước tự chảy kết hợp xử lý nước bằng bể lọc lấy nước từ các mạch lộ cấp nước cho từng cụm dân cư nhỏ; đồng thời đào giếng mới lắp bơm tay, cải tạo giếng đã có kết hợp với các bể xử lý đối với nơi có mực nước ngầm nông. Với vùng III, nên dùng hình thức giếng đào nông kết hợp làm bể, lu chứa nước mưa.
Cần lưu ý là nguồn nước cấp cho dân sinh cũng như cho sản xuất chủ yếu là nước mặt lấy từ sông Côn, Lại Giang, Hà Thanh, La Tinh, và sử dụng nước ngầm chỉ ở mức hạn chế cho những nhu cầu bức thiết. Do nguồn nước ngầm ở tỉnh ta có trữ lượng không lớn, nên việc khai thác, sử dụng nước ngầm cần được nghiên cứu và tính toán cẩn thận để tránh suy thoái nguồn nước ngầm. Nên ưu tiên hàng đầu cho hoạt động khai thác nước phục vụ sinh hoạt, sau đó là chăn nuôi, nước tưới.
Về phương pháp khai thác nước ngầm, đối với các tầng chứa nước lộ trên mặt đất hay nằm gần sát mặt đất, mực nước ngầm nông, có thể đào giếng khơi, hay khoan nông, lấy nước bằng các biện pháp thủ công (dùng gàu múc, bơm lắc tay) hoặc dùng bơm điện chìm loại nhỏ. Đối với tầng nước nằm sâu hơn, khi mực nước nông, khoan giếng lắp bơm lắc tay hay bơm ly tâm, bơm điện chìm, có thể đặt giếng khoan bên trong một giếng đào đường kính lớn. Ở vùng đồi núi, nên đào hào, hoặc khoan giếng, đào giếng ở ven chân đồi, gom nước lại một bồn chứa, rồi dẫn về nơi sử dụng. Nếu có các mạch lộ thì khai rộng và dẫn về nơi sử dụng.
Sở TN-MT đã kiến nghị UBND tỉnh và chính quyền các địa phương: Với các khu vực những năm trước đây đã thiếu hụt nguồn nước sản xuất và sinh hoạt thì không khoan thêm giếng sử dụng nước cho mục đích sản xuất, mà ưu tiên sử dụng nước cho sinh hoạt và gia súc. Các cơ sở sản xuất có sử dụng nước ven biển phải có biện pháp hạn chế khai thác, sử dụng. Để tránh xâm nhập mặn, không khai thác hoặc hạn chế khai thác nước ngầm bị nhiễm mặn, nhất là khu vực ven đầm Thị Nại; vùng mặn ở đồng bằng thấp đầm Trà Ổ; vùng mặn cửa sông Lại Giang.
VIẾT HIỀN