Nghị lực một người mù
Mất đi đôi mắt năm 14 tuổi, nhưng bằng nghị lực, ông Huỳnh Bá Tuyết (62 tuổi, ở thôn Xuân Phương, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước) đã vượt lên hoàn cảnh, có nhiều đóng góp cho Hội người mù tỉnh suốt từ khi thành lập đến nay. Từ trong bóng tối, ông Tuyết tìm thấy ánh sáng cho chính mình và cả những người khiếm thị bất hạnh khác.
Không ngừng quyết tâm tìm ánh sáng cuộc đời
Gần 50 năm trước, khi đang là một học trò cấp 2, ông Huỳnh Bá Tuyết vướng phải trái nổ trên đường đi học. Thị giác vĩnh viễn mất đi kể từ tai nạn ấy, khiến ông sợ sệt, hoang mang. Nhưng, ý chí và nghị lực của người con sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, phải sớm tự lập vì cảnh ly tán (cha tập kết ra Bắc, mẹ bị quản thúc) đã giúp ông gượng dậy. Và lá thư của người cha đang ở phương xa với lời động viên con làm theo lời Bác dạy “tàn nhưng không phế” đã góp thêm sức mạnh cho chàng trai kém may mắn ngày ấy. Để rồi, suốt phần đời còn lại, lời dạy này trở thành phương châm sống, soi lối con đường ông đi.
Ông Huỳnh Bá Tuyết (người đứng, cầm micro) trong một hoạt động cùng nhà hảo tâm tặng quà cho người mù.
Không có ai giúp đỡ và chỉ dẫn, ông Tuyết vẫn mạnh dạn tập đi lại, nhận biết mọi thứ bằng các giác quan còn lại. Theo năm tháng, ông rời không gian trong nhà, mở rộng phạm vi nhận biết ra sân hè rồi đến chợ làng. Ông làm mọi việc như quét nhà, nấu cơm, rửa chén, đan lát, phụ bán quán với người bác… rành rọt không kém người sáng mắt.
Thời chiến tranh đói khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhiều người trong hoàn cảnh như ông Tuyết đã chọn buông xuôi, phó mặc cho số phận. Nhưng ông Tuyết lại khác. Ông khát khao được tiếp tục đi học. Không ngồi một chỗ để ôm ấp ước mơ và chờ may mắn tìm đến, ông dò hỏi khắp nơi về trường dạy cho người mù. Thông tin về một trường dành cho người khiếm thị tại Sài Gòn làm ông vui mừng. Sự lo lắng và ngăn cản của nhiều người trong gia đình không làm giảm quyết tâm lên đường đi học của ông.
Từ năm 1972 đến 1975, ông Tuyết được học văn hóa bằng chữ Braille, học phục hồi chức năng, học đánh máy chữ, âm nhạc, học nghề rửa phim… Tất cả những kiến thức, kỹ năng ấy góp phần làm nên sự hiểu biết, tự tin, là hành trang hữu ích cho ông trên chặng đường sau này.
Hòa bình lập lại, ông trở về quê hương, đoàn tụ gia đình sau bao năm xa cách. Ông tham gia Hợp tác xã Nông nghiệp Phước Sơn 2 và phụ trách đội tuyên truyền thông tin cổ động. Nhiệm vụ của ông là viết bài tuyên truyền đến bà con nông dân về các kiến thức sản xuất cây trồng, mùa vụ, nghĩa vụ quân sự, dân số kế hoạch hóa gia đình… Bằng chiếc gậy dò đường, máy đánh chữ, ông say mê với công việc đi và viết, nỗ lực để được nhìn nhận năng lực. Chỉ sau hai năm, ông đã làm được việc mà chưa chắc nhiều người sáng mắt làm được vào thời ấy - vào biên chế chính thức của hợp tác xã.
Sau đó 10 năm, ông rời hợp tác xã sau một đợt tinh giản biên chế và nhận viết tiểu phẩm cho các cuộc thi phong trào tại địa phương. Vốn sống phong phú, vốn hiểu biết về thơ ca, hò vè, làn điệu dân gian địa phương của ông chính là nguyên liệu làm nên nhiều tiểu phẩm được yêu thích, đạt giải. Nhiều hội đoàn thể, các đơn vị, trường học... đã tìm đến để “đặt hàng”. Đến tận bây giờ, viết tiểu phẩm vẫn là “nghề tay trái” của ông.
Vượt qua những cấm cản của gia đình người yêu, ông lập gia đình năm 44 tuổi với một người phụ nữ lành lặn quê ở xã Phước Hòa. Hiện nay, họ có một cậu con trai 10 tuổi chăm ngoan. Mái ấm của họ vẫn luôn bình yên, hạnh phúc trên nền tảng của tình yêu, sự cảm thông. Điều đó có sức thuyết phục to lớn đối với những người từng phản đối cuộc hôn nhân của họ.
Nỗ lực vượt khó giúp người đồng cảnh
Tháng 5.2009, ông Huỳnh Bá Tuyết trở thành vị Chủ tịch Hội người mù của tỉnh khi hội thành lập. Từ đây, một ước mơ khác của ông là được giúp những người mù kém may mắn khác tự tin, sống tốt đẹp hơn bước đầu thành hiện thực. Dù hành trình thực hiện ước mơ đó lắm gian nan.
“Còn nhớ, những ngày đầu thành lập, Tỉnh hội chưa có trụ sở làm việc. 6 tháng đầu tiên, Hội mượn nhà của cha tôi để làm việc. 3 năm tiếp theo, Hội mượn nhà của anh Nguyễn Hùng Thanh, Phó Chủ tịch Hội tại 155 Trần Cao Vân (TP Quy Nhơn) làm trụ sở. Phải đến năm 2013, Hội mới có trụ sở chính thức tại 17 Ngô Quyền. Nhưng không chỉ khó ở cơ sở vật chất, công tác vận động hội viên những ngày đầu cũng rất khó khăn. Người mù sống tập trung ở vùng sâu, vùng xa, vùng hẻo lánh. Cán bộ khiếm thị như tôi phải phụ thuộc vào cán bộ sáng để đến được với họ. Đến nơi rồi thì lại phải nói làm sao cho người mù và gia đình hiểu về ý nghĩa của việc tham gia vào hội. Ngày đó, rất nhiều người mù nghe chúng tôi nói mà không hiểu gì...”, ông Tuyết nhớ lại.
Ở vị trí là người đứng đầu tổ chức Hội, ông Tuyết đã cùng với các cán bộ Hội tập trung vào những nhiệm vụ: dạy chữ, dạy nghề, tặng quà, hỗ trợ nhà ở, vay vốn sản xuất... cho người mù. Lần đầu tiên, người mù được đi học, học nghề đặc thù và có việc làm. Lần đầu tiên, gia đình người mù được cán bộ khiếm thị đến tận nhà động viên đưa con em đi học lớp can thiệp sớm tại các trường, cơ sở có uy tín ngoài tỉnh...
“Sau 7 năm, nhiều người mù có cuộc sống tốt đẹp hơn; trình độ dân trí được nâng cao. Hơn thế, xã hội cũng thay đổi cách nhìn nhận về người mù. Đến nay, đã có 9 lớp dạy chữ, dạy nghề, phục hồi chức năng cho hơn 100 người mù trong tỉnh; 19 cháu khiếm thị đang tuổi đến trường được đi học tại các trường ngoài tỉnh; 2 lớp can thiệp sớm cho các cháu khiếm thị tuổi từ 0 đến 6; 1 lớp học vi tính cho 15 người mù; vận động xây mới 8 ngôi nhà, sửa chữa 2 căn... Chúng tôi sẽ không ngơi nghỉ để những con số này tiếp tục tăng lên”, ông Tuyết chia sẻ.
Cũng tương tự như quyết tâm không ngơi nghỉ vì người mù ấy của ông Tuyết, sự yêu mến, quý trọng của cán bộ Hội, người mù trong tỉnh dành cho vị Chủ tịch Hội cũng không ngừng tăng lên theo năm tháng…
NGUYỄN MUỘI