Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam phản bác việc đào tạo tiến sĩ tràn lan
Liên quan đến thông tin nghi vấn về việc đào tạo tiến sĩ, sáng nay, 22.4, tại Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức họp báo về vấn đề này.
Quang cảnh buổi họp báo
Tại cuộc họp báo, GS Võ Khánh Vinh, Giám đốc Học viện Khoa học xã hội cho biết, hiện học viện có 20 khoa, đào tạo 36 ngành tiến sĩ (học viện không đào tạo cử nhân, chỉ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ). Chỉ tiêu hàng năm của học viện là 350, chia đều cho 36 ngành thì mỗi ngành có chưa đầy 10 chỉ tiêu. "Một số ngành rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước nhưng thực tế số chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ vẫn còn ít ỏi" - ông Vinh khẳng định. Bên cạnh đó, hàng năm số ứng tuyển so với số chỉ tiêu thường nhiều gấp đôi, vì vậy học viện có cơ sở để tuyển chọn được những người tốt nhất.
Về quy trình đào tạo tiến sĩ của học viện, GS Võ Khánh Vinh nhấn mạnh quy trình rất chặt chẽ. Ngoài thực hiện theo Thông tư 15 theo quy định của Bộ GD-ĐT, Học viện còn trực tiếp cụ thể hóa các quy định tại học viện. “Việc bảo vệ phải đúng niên hạn, nghiên cứu sinh nào không làm đúng sẽ gửi trả về, nếu học lại sẽ phải học đúng 3 năm. Đó là thành công trong đào tạo tiến sĩ của học viện", GS Vinh khẳng định.
Trả lời các chất vấn của báo chí về quy trình đào tạo tiến sĩ, chất lượng đào tạo, chất lượng các đề tài.. GS-TS Võ Khánh Vinh khẳng định, Học viện không có chuyện du di, nhẹ tay với nghiên cứu sinh. “Chúng tôi tuyệt đối tin tưởng vào các nhà phản biện kín, có những luận án phải sửa chữa, sau đó gửi lại những GS phản biện kín. Việc thực hiện các đề tài luận án tiến sĩ được công khai hóa trên web của học viện để xã hội giám sát, bảo đảm trải qua 3 bộ lọc: chuyên môn, xã hội, đạo đức. 412 người giảng viên từ Viện hàn lâm, đều là giảng viên cơ hữu. Chưa nơi nào mà có nhiều đề tài nghiên cứu được đưa vào giảng dạy nhiều như ở Học viện. Đặc thù của học viện là có rất nhiều GS, PGS, Tiến sĩ danh tiếng”, GS Vinh tiếp tục khẳng định.
Lãnh đạo Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam cũng tự hào cho biết, trong số 10% luận án tiến sĩ được Bộ GD-ĐT chọn ngẫu nhiên chấm thẩm định lại, học viện không có luận án nào. Tới đây, học viện có phần mềm để có thể phát hiện những hiện tượng gian lận trong khi làm đồ án, coppy luận án người khác.“Chúng tôi luôn cân nhắc từng đề tài”, GS Võ Khánh Vinh khẳng định.
Trả lời chất vấn của báo chí cũng như phản ứng của cộng đồng mạng về việc có những đề tài bảo vệ luận án tiến sĩ vừa qua “lạ tai”, không xứng tầm, vụn vặt, GS-TS Vũ Dũng (Viện trưởng Viện tâm lý học, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng, trong suy nghĩ của chúng ta hay cho rằng, đề tài tiến sĩ phải to tát, nhưng thực tế, trên thế giới, những đề tài nghiên cứu sau đại học rất thực tiễn, cụ thể. Ví dụ Hà Lan đã từng có nghiên cứu tiến sĩ về hành vi viết chữ trong nhà vệ sinh; về hành vi giũ nước bọt ngoài đường…”. Mục tiêu của Viện khoa học xã hội là gắn nghiên cứu với đào tạo, vì vậy rất cần những đề tài hiện thực, có ý nghĩa với cuộc sống. Không có đề tài nào vô nghĩa cả”, GS Vũ Dũng nêu.
GS Vũ Dũng dẫn chứng đề tài "Đặc điểm giao tiếp với dân của Chủ tịch UBND xã" mà dư luận chê. GS Vũ Dũng khẳng định đó là đề tài hay, được các cấp hội đồng đánh giá là đề tài có ý nghĩa thực tiễn lớn. “Vì nếu không có giao tiếp thì không có con người. Từ trước đến nay chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này, Việt Nam có 11.164 xã, đồng nghĩa có 11.164 chủ tịch xã, rất đáng để nghiên cứu. Vì sao đề tài nghiên cứu ở chủ tịch cấp xã?, vì đó là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống chính trị của chúng ta, chính sách có đi vào cuộc sống hay không phụ thuộc rất nhiều vào chính quyền cấp xã. Chủ tịch xã có hiểu được dân hay không, nắm được dân hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề giao tiếp. Vì thế, chúng tôi cho đây là đề tài rất thực tiễn”, GS Vũ Dũng nói.
Tương tự, GS Nguyễn Văn Hiệp, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam cho biết, đề tài nghiên cứu về hành vi nịnh trong tiếng Việt là đề tài tốt. “Hành vi này có những đặt trưng riêng cho nhân loại, có những đặc trưng riêng cho văn hóa. Ví dụ hành vi thề, phương Đông thề kiểu khác, dân tộc thề kiểu khác. Nghiên cứu trong từng bối cảnh cụ thể và có sự so sánh để thấy sự khác biệt. Không nên đánh giá nịnh theo nghĩa dung tục theo cách hiểu xã hội. Còn chúng tôi quan sát theo góc độ xã hội học. Hành vi nịnh của người Việt có cái chung và cái riêng góp phần vào ngôn ngữ thế giới”, GS Hiệp nêu. Ví dụ nghiên cứu về tội phạm không phải là để cổ vũ tội phạm, mà là để ngăn ngừa. Nghiên cứu về nịnh là để nhận chân người đó. Việc đó rất tốt. Không nên quy chụp nịnh thì có gì mà nghiên cứu. “Đây là luận án khá tốt, tôi đang đề nghị tác giả làm sách. Đề tài có tác động thực tiễn lớn đối với xã hội, để ngăn trừ thói xu nịnh. Chúng ta phải biết và hiểu ý nghĩa đề đề tài, nếu nghi ngờ chất lượng thì Bộ GD-ĐT cứ hậu kiểm. Tôi tin Bộ sẽ kết luận là luận án tốt”.-GS Hiệp tự tin.
Chung quy, các GS của Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam khẳng định, quy trình xây dựng đề tài nghiên cứu đối với đào tạo tiến sĩ ở Học viện rất chặt chẽ, trải qua nhiều bước…Tuy vậy, tại cuộc họp báo, các phóng viên vô cùng trăn trở với tình trạng đào tạo tiến sĩ ồ ạt hiện nay, nhiều đề tài nghiên cứu ra theo kiểu chỉ để lấy điểm.
Theo PHAN THẢO (SGGP)