Mùa sứa trên đầm Thị Nại
Tháng 2 đến tháng 5 hằng năm là mùa sứa xuất hiện trên đầm Thị Nại. Theo lời cư dân ven đầm, năm nay “thuận trời”, sứa xuất hiện nhiều hơn các năm trước. Nhờ thế, thu nhập của bà con thêm phần khấm khá.
Những ngày này, người dân hai xã Phước Thuận và Phước Sơn (huyện Tuy Phước) ra khơi từ lúc giữa đêm để tìm kiếm sứa - loài sinh vật trôi bập bềnh theo con nước. Chuyến đi có thể bắt đầu lúc 11 giờ đêm, 2 giờ sáng hoặc trễ nhất là lúc 4 giờ sáng. Để rồi khi mặt trời lên cao, những chiếc ghe, sõng cập bờ, chở theo những xô, thùng sứa nặng trĩu.
Ngư dân ven đầm Thị Nại phấn khởi với xô sứa nặng tay.
Đưa sứa cập bờ
8 giờ sáng, tại bến tàu thôn Bình Thái (xã Phước Thuận), ngư dân Võ Văn Mười (44 tuổi) đang tất bật đưa 6 thùng sứa vớt được từ tờ mờ sáng lên bờ. Hỏi về vụ sứa năm nay, ông cười sảng khoái: “Năm nay “thuận trời”, sứa được mùa hơn các năm trước. Kinh nghiệm của tôi là năm nào sương mù nhiều, năm ấy đầm chắc chắn có lắm sứa”.
Đang cặm cụi sơ chế sứa, chị Trịnh Thị Hoa (43 tuổi, ở thôn Bình Thái) góp thêm lời: “Bữa nay, sứa đã vơi bớt rồi nên mỗi người chỉ thu được 6 - 7 xô sứa (loại xô 18 lít) chứ bình thường phải được trên 10 xô. Có bữa, hàng trăm xô sứa chen nhau trên bến tàu. Nhiều gia đình phải gọi thêm người ngồi cắt sứa thì mới kịp phân loại hết chừng đó sứa để kịp phơi nắng. Tiền công cho người cắt sứa từ 70.000 đến 100 ngàn đồng/người, tùy vào khối lượng công việc”.
Theo lời của ngư dân, sứa thường theo con nước mà nổi lên mặt đầm. Việc đi vớt sứa cũng mang tính hên xui. Như bọt biển, sứa trôi dập dềnh, lúc thì nổi ở vùng này, khi lại nổi ở vùng khác. Có lúc, thấy sứa nổi lên trước mặt đấy nhưng nếu không nhanh tay, chỉ cần một cơn gió là chúng lặn sâu ngay lập tức.
Đồ nghề của người đi vớt sứa khá đơn giản, thuyền thúng (nếu đi bằng ghe lớn), đèn pin và vợt cán dài. “Đêm giữa đầm tối mịt, ánh đèn pin loang loáng. Nhiều lúc sứa nổi nhiều chỉ sợ không có sức mà vớt. Con sứa đầm mình nhỏ hơn sứa biển nhưng được cái “hiền” hơn, ít làm ngứa ngáy người vớt sứa” - anh Mười chia sẻ thêm.
Chị Nguyễn Thị Kim Chi đang tách mình và chân sứa để phân loại.
Buồn, vui mùa sứa
Nghề nào cũng có cái khổ riêng của nó. Việc vớt sứa trên đầm vốn cũng nhọc nhằn bởi đêm hôm khuya khoắt hoặc nắng nóng đến rát da thịt. “Nhưng khổ mà kinh tế gia đình đi lên thì khổ mấy cũng chịu được! Bữa nay, vợ chồng tôi vớt được 6 xô sứa. Bán sứa tươi thì được 60.000 đồng/xô. Nếu tôi bỏ thêm công sơ chế thì có thể bán được 50.000 đồng/xô sứa chân, 80.000 đồng/xô sứa mình. Vậy là kiếm được hơn 300 ngàn đồng để lo cho con cái ăn học. Vui rồi!” - chị Nguyễn Thị Kim Chi (45 tuổi, ở thôn Bình Thái) tâm sự.
Để sơ chế sứa, ngư dân thường tách phần mình và chân sứa ra riêng. Sau đó, ngâm dưới trời nắng để làm chết sứa. Chỗ ngâm sứa được ngư dân thiết kế hết sức đơn giản: Lấy gạch, đá xếp thành ô vuông, trải bao nilon vào trong để làm thành hồ nhỏ. “Để sứa nhanh chết, bà con chúng tôi còn phủ thêm bao nilon lên bề mặt để tăng nhiệt độ. Đến khi sứa chết, ngư dân tiếp tục cho thêm một ít phèn chua vào để sứa săn chắc, thịt sứa cứng lại như miếng dừa, để qua đêm không bị hư. Sau đó, phải xả nước nhiều lần cho sứa sạch, nhả hết vết đốm trên mình, chân thì mới đem đi bán được” - ông Phan Văn Cư (50 tuổi, ở thôn Nhân Ân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước) cho biết.
Quy trình sơ chế ấy thường kéo dài gần một ngày trời dưới nắng gắt. Nhưng với người dân ven đầm Thị Nại, công thức làm sạch lâu đời này đã thành niềm tự hào.
Chị Lưu Thị Liên (46 tuổi, ở thôn Bình Thái, xã Phước Thuận) - một người thu mua sứa tươi về sơ chế, kể: “Thỉnh thoảng, xem tivi, đọc báo, thấy người ta nói về việc ăn sứa bị ngộ độc, bà con địa phương bức xúc lắm. Sứa ở đâu thì không biết, chứ sứa đầm Thị Nại lành tính và ngon đậm đà. Bà con ở đây cũng rất ý thức về cách sơ chế sao cho an toàn. Không như các vùng khác dùng mô-tơ quay làm săn sứa cho nhanh; ở đây, người ta để sứa dưới nắng, chờ sứa thấm phèn chua đúng ngày, đúng giờ mới đem đi bán, đảm bảo sứa không bị sống để gây đau bụng. Ngay việc dùng phèn chua cũng vậy, quy định của Bộ Y tế cho phép dùng phèn chua nhưng bà con mình dùng với liều lượng rất hạn chế. Sau đó, còn rửa sạch nhiều lần nên phải nói là con sứa xứ mình rất sạch. Mình làm là để mình còn ăn được. Như vừa rồi, đám cưới con gái, tôi cũng tự tay sơ chế, dọn mời mấy chục bàn khách món nộm sứa và ai cũng khen ngon”.
71 tuổi, hàng chục năm gắn bó, kiếm sống nhờ những “đặc ân” của đầm Thị Nại, bà Trần Thị Nhung (ở thôn Bình Thái) mang nỗi buồn khác. Bà nhớ, sứa ngày xưa nhiều lắm. Thời con gái, bà chèo sõng nhôm đi vớt sứa về bán, nuôi cả gia đình. Ngày nay, vẫn với sõng nhôm, bà bám đầm, bám những mùa sứa để nuôi mình, không làm gánh nặng cho con cháu. Với bà, sứa vẫn còn đấy nhưng chẳng bằng thời trước. Bởi xung điện xiếc máy, bởi chất tẩy rửa lưới lồng... của chính những cư dân ven đầm vì lợi nhuận mà hủy hoại môi trường sống của thủy hải sản.
Tôi thầm hẹn với bà Nhung sẽ quay lại đây để cùng bà trò chuyện về nỗi buồn lo đó. Còn bây giờ với nhiều người, trong đó có cả tôi, mùa sứa năm nay đang là một mùa vui!
NGUYỄN MUỘI