Quy hoạch để quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước
Ông Đinh Văn Tiên
Dự án “Quy hoạch tài nguyên nước (TNN) tỉnh Bình Ðịnh giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến 2030” nhằm mục tiêu quản lý, khai thác và sử dụng TNN trên địa bàn tỉnh ngày càng hiệu quả. PV Báo Bình Ðịnh đã phỏng vấn ông Ðinh Văn Tiên, Phó Giám đốc Sở TN-MT, về vấn đề này.
* Xin ông cho biết tình hình khai thác, sử dụng TNN trên địa bàn tỉnh thời gian qua?
- Có thể nói, những năm qua công tác quản lý, khai thác và sử dụng TNN trên địa bàn đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan tâm. Theo đó, ngay từ năm 2004, khi thực hiện “Điều chỉnh quy hoạch chung TP Quy Nhơn đến năm 2020” lãnh đạo tỉnh đã yêu cầu cơ quan chức năng phải chú trọng đến TNN và nguồn TNN đối với đô thị nói riêng. Theo thống kê, hiện tổng lượng nước ngọt được dùng để cấp nước tưới, sinh hoạt, sản xuất công nghiệp và nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh ước tính khoảng 810 triệu m3/năm (bằng khoảng 1,4% so với lượng nước dùng của cả nước), trong đó, cấp nước tưới lúa 88%; cấp nước sinh hoạt 6%, sản xuất công nghiệp 5% và nuôi trồng thủy sản (nước ngọt) 1%.
Cụ thể, tổng lượng nước uống và sinh hoạt trên địa bàn là khoảng 51 triệu m3/năm; tổng lượng nước hàng năm cấp cho sản xuất công nghiệp khoảng 39 triệu m3/năm; lượng nước ngọt cấp cho nuôi trồng thủy sản khoảng 5 triệu m3/năm; cấp nước tưới cho nông nghiệp hàng năm khoảng 710 triệu m3/năm. Đồng thời, toàn tỉnh có 179 công trình cấp nước tưới cho trên 41.000 ha lúa. Đáng lưu ý, trên địa bàn tỉnh hiện có khoảng 418 ngàn người dân nông thôn được cấp nước sạch (chiếm 37,8% số dân nông thôn)…
* Còn về hạn chế, khó khăn?
- Mặc dù đạt được một số kết quả, song có thể nói công tác quản lý, khai thác, sử dụng TNN trên địa bàn tỉnh thời gian qua vẫn còn những tồn tại, khó khăn. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, Bình Định được xếp vào loại “đối tượng khan hiếm nước không thường xuyên”. Trung bình mỗi người dân Bình Định được hưởng khoảng 3.350 - 3.450m3 nước/năm, chỉ bằng 40% - 42% mức trung bình chung so với cả nước và của thế giới. Đáng lưu ý, trên địa bàn tỉnh có khoảng trên 60% số xã, thị trấn thiếu nước sinh hoạt, với tổng số dân bị thiếu nước khoảng 480 ngàn người. Trong số này, thiếu nước sinh hoạt bình thường khoảng 290 ngàn người, thiếu nước uống nghiêm trọng 190 ngàn người.
Bên cạnh đó là tình trạng khai thác nước ngầm tùy tiện, bừa bãi. Có thời điểm toàn tỉnh có tới 15.000 giếng khoan tay, 183 ngàn giếng đào cung cấp nước sinh hoạt cho trên 700 ngàn dân. Nếu tính lưu lượng khai thác 3 m3/ngày/giếng thì đạt tới 600 ngàn m3/ngày.
Không chỉ có vậy, nước trong các sông trên địa bàn tỉnh có dấu hiệu bị ô nhiễm vi sinh và hữu cơ, với mức độ ô nhiễm tăng dần từ thượng lưu về hạ lưu, nhất là các sông chảy qua khu công nghiệp và khu vực đô thị… Ngoài ra, hiện tượng nhiễm mặn trong nước ngầm ở vùng ven biển trên địa bàn đang có xu hướng gia tăng cả về biên độ và cường độ. Đáng lo ngại, nước mặn không những chỉ xâm nhập vào Nhơn Bình, Nhơn Phú… mà còn có khả năng vào sâu đến 40- 50 km.
Cán bộ Sở TN-MT đang kiểm tra chất lượng nguồn nước ngầm.
* Vậy giải pháp nào để công tác quản lý, khai thác, sử dụng TNN ngày càng hiệu quả, thưa ông?
- Sở TN-MT vừa lập đề cương Dự án “Quy hoạch TNN tỉnh Bình Định giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Mục tiêu của dự án là quy hoạch, bảo vệ nguồn TNN mặt, đáp ứng yêu cầu thông tin phục vụ công tác quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN trên địa bàn tỉnh. Mục tiêu cụ thể là xác định được hiện trạng, dự báo số lượng, chất lượng TNN mặt và nhu cầu khai thác, sử dụng; xây dựng các phương án, giải pháp bảo vệ TNN mặt cho những vùng quy hoạch; đề xuất những nhiệm vụ cần thực hiện trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch.
Dự án có nhiệm vụ: Đánh giá đặc điểm, đặc trưng chủ yếu về số lượng, chất lượng TNN mặt; đánh giá hiện trạng, diễn biến chất lượng nước mặt theo các đặc trưng vật lý, hóa học, sinh học của từng nguồn nước trong vùng quy hoạch; đánh giá tình hình xả nước thải, chất thải vào nguồn nước; xác định vị trí, phạm vi và mức độ ô nhiễm của các nguồn thải và các nguồn gây ô nhiễm khác trong vùng quy hoạch; xác định những khu vực trọng điểm trong vùng quy hoạch bị ô nhiễm, nhiễm mặn, suy thoái nguồn nước; phân tích, xác định nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm, nhiễm mặn và suy thoái đó; phân loại chất lượng nước mặt, phân vùng ô nhiễm, nhiễm mặn đối với từng nguồn nước trong vùng quy hoạch; phân tích, dự báo xu thế biến đổi các đặc trưng về chất lượng nước, nước thải xả vào nguồn nước; xác định mục tiêu chất lượng nước đối với từng nguồn nước phù hợp với mục đích sử dụng nước.
* Ông có thể cho biết cụ thể hơn về việc triển khai dự án?
- Đầu tiên, tiến hành thu thập văn bản, dữ liệu, thông tin; điều tra thực địa và thu thập bổ sung tài liệu; xử lý, tổng hợp dữ liệu, thông tin đã thu thập và điều tra thu thập bổ sung. Đồng thời, tiến hành phân tích, đánh giá hiện trạng, xác định các vấn đề liên quan đến bảo vệ TNN mặt; phân tích, dự báo xu thế biến động của nguồn nước mặt; xác định các vấn đề về quản lý, bảo vệ TNN mặt trong kỳ quy hoạch và thứ tự ưu tiên giải quyết.
Tiếp đó, xây dựng các phương án quy hoạch, lấy ý kiến và lựa chọn phương án quy hoạch và bảo vệ TNN mặt; đề ra giải pháp, kế hoạch và tiến độ thực hiện quy hoạch. Sau cùng sẽ thực hiện lập hồ sơ Dự án quy hoạch để lấy ý kiến, đồng thời hoàn chỉnh hồ sơ đồ án quy hoạch… Ngày 10.5 vừa qua, Sở TN-MT đã tổ chức mở thầu gói thầu Dự án “Quy hoạch TNN tỉnh Bình Định giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến 2030”.
* Xin cảm ơn ông!
VIẾT HIỀN (Thực hiện)