Án lệ và áp dụng án lệ
Ngày 6.4.2016, Chánh án TAND tối cao đã ban hành Quyết định số 220/QÐ-CA về việc công bố án lệ (AL). Theo đó, có 6 AL đầu tiên sẽ được các TAND và tòa án quân sự xem xét, áp dụng trong xét xử từ ngày 1.6.2016. Việc áp dụng AL được kỳ vọng sẽ góp phần giải quyết những vấn đề còn vướng mắc trong thực tế xét xử hiện nay.
Việc áp dụng AL sẽ góp phần giải quyết những quan hệ xã hội phát sinh trong cuộc sống, nâng cao trách nhiệm xét xử, thay đổi tư duy của thẩm phán.
- Trong ảnh: Một phiên tòa hình sự. Ảnh: T. HÀ
Án lệ là gì?
Theo Nghị quyết số 03/2015/HĐTP của Hội đồng thẩm phán (HĐTP) TAND tối cao ngày 28.10.2015, AL là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án về một vụ việc cụ thể được HĐTP TAND tối cao lựa chọn và được Chánh án TAND tối cao công bố là AL để các tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
AL được lựa chọn phải đáp ứng được các tiêu chí: (1) chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể; (2) có tính chuẩn mực; (3) có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau.
Trong 6 AL được Chánh án TAND tối cao cho phép xem xét áp dụng trong xét xử từ ngày 1.6.2016 có 1 án hình sự - tội giết người, 2 án trong lĩnh vực đất đai, 2 án về thừa kế, 1 án lệ về ly hôn - giải quyết tài sản.
Đơn cử, như AL số 01/2016/AL (nguồn: Quyết định giám đốc thẩm số 04/2014/HS-GĐT ngày 16.4.2014 của HĐTP TAND tối cao về vụ án “Giết người” đối với bị cáo Đồng Xuân Phương, SN 1975, ở Hải Phòng).
Nội dung: Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ; người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”.
Hoặc như AL số 05/2016/AL (Nguồn: Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày 9.10.2014 của HĐTP tối cao về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” tại TP Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Thúy Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào).
Nội dung: Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.
Ðương sự thuận lợi, trách nhiệm thẩm phán cao hơn
Theo Phó Chánh án TAND tỉnh Đặng Thành Thái, việc xem xét, áp dụng AL trong xét xử sẽ giải quyết được những vấn đề không có hoặc chưa được quy định trong luật. AL sẽ là kim chỉ nam cho thẩm phán, tòa án áp dụng vào những vụ, việc tương tự.
Ông Thái đưa ra trường hợp điển hình tương tự như AL số 01/2016/AL xảy ra tại phường Nhơn Bình, Quy Nhơn mấy năm trước. Trong bữa giỗ, chủ hồ tôm than thở về việc một số thanh thiếu niên thường hay đến xúc trộm tôm cá. Nghe vậy, người cháu bày cách kiếm người nhờ “dằn mặt” cho tụi nhỏ sợ, người chú đồng ý. Chẳng may, một người trong nhóm bị đánh đã chết. Cả chú, cháu lẫn nhóm được nhờ đi đánh đều bị truy tố, xét xử tội “giết người”. Rõ ràng trường hợp này người chú chỉ có ý định nhờ “dằn mặt” để khỏi bị mất trộm tôm cá mà thôi.
Theo ông Thái, đến nay một số trường hợp án tranh chấp về dân sự vẫn không xử được vì luật chưa có quy định cụ thể. Có những vụ đương sự yêu cầu tòa xử phân chia tài sản thừa kế, chia tài sản chung nhưng tòa không thụ lý vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế (quá 10 năm kể từ thời điểm người có di sản chết). Tòa không xử, đương sự yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết nhưng cũng bị từ chối vì không thuộc thẩm quyền.
“Do đó, áp dụng AL trong xét xử không những sẽ giải quyết được quan hệ phát sinh trong thực tế cuộc sống mà luật chưa điều chỉnh kịp, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự là tổ chức, cá nhân khi yêu cầu giải quyết mọi tranh chấp phát sinh. Đối với thẩm phán, việc áp dụng xét xử theo AL đòi hỏi họ phải thay đổi tư duy, có trách nhiệm cao hơn bởi phải tìm hiểu, nghiên cứu vận dụng AL vào thực tiễn xét xử của từng vụ việc”, ông Đặng Thành Thái, Phó Chánh án TAND tỉnh, nhận định.
Ông Thái cũng cho biết thêm, việc áp dụng AL vào thực tế xét xử chưa thể triển khai ngay tại Bình Định vì cần có thời gian tập huấn, nghiên cứu chuyên sâu. Ngoài ra, Khoản 2, Điều 6 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định trong trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định thì áp dụng AL và lẽ công bằng, nhưng đến ngày 1.1.2017 thì Bộ luật Dân sự năm 2015 mới có hiệu lực.
4 AL còn lại:
- Án lệ số 02/2016/AL: Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình, khi giải quyết tranh chấp thì tòa án phải xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ; trường hợp không xác định được chính xác công sức của người đó thì cần xác định người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và người đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ có công sức ngang nhau để chia phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ban đầu.
- Án lệ số 03/2016/AL: Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng, cho quyền sử dụng đất.
- Án lệ số 04/2016/AL: Trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất.
- Án lệ số 06/2016/AL: Trong vụ án tranh chấp thừa kế có người thuộc diện thừa kế ở nước ngoài, nếu tòa án đã thực hiện ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của những người đó thì tòa án vẫn giải quyết yêu cầu của nguyên đơn; nếu xác định được di sản thừa kế, diện hàng thừa kế và người để lại di sản thừa kế không có di chúc thì giải quyết việc chia thừa kế cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật; phần tài sản thừa kế của những người vắng mặt, không xác định được địa chỉ sẽ tạm giao cho những người sống trong nước quản lý để sau này giao lại cho những thừa kế vắng mặt.
THU HÀ