Ông Phan Trọng Hổ- Giám đốc Sở NN-PTNT:
Để phát triển mạnh hơn, nghề cá còn nhiều việc phải làm
Ông Phan Trọng Hổ
Thời gian qua, ngành nghề khai thác và chế biến thủy sản đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, song kết quả đạt được vẫn còn hạn chế. PV Báo Bình Định đã phỏng vấn ông Phan Trọng Hổ, Giám đốc Sở NN-PTNT, về vấn đề này.
* Xin ông cho biết thực trạng hoạt động khai thác thủy sản của ngư dân tỉnh ta?
- Trong những năm qua, ngành thủy sản tỉnh ta đã chuyển đổi mạnh mẽ về cơ cấu tàu thuyền và nghề cá. Số lượng tàu thuyền có công suất lớn, trang thiết bị hiện đại ngày càng nhiều, sản lượng thủy sản khai thác tăng khá. Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 7.588 tàu cá, tổng công suất 788.520 CV, bình quân 104 CV/tàu. Trong đó, có khoảng 2.500 tàu có công suất trên 90 CV, chuyên khai thác ở các vùng biển xa; tập trung các nghề chủ lực như: câu cá ngừ đại dương, câu mực, mành chụp mực, vây ngày, vây ánh sáng, lưới rê… Trong số tàu chuyên khai thác ở các vùng biển xa có đội tàu khai thác cá ngừ đại dương khá lớn với trên 1.041 tàu. Trong đó nghề câu vàng có 10 tàu, câu tay kết hợp ánh sáng 642 tàu, vây ngày có 65 tàu và câu mực kết hợp khai thác cá ngừ có 334 tàu.
6 tháng đầu năm 2013, ngư dân tỉnh ta đã khai thác được 63.851 tấn thủy sản các loại, bằng 88,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá ngừ đại dương đạt 4.673 tấn, tăng 9,2% so với cùng kỳ. Tuy vậy, do giá cá ngừ đại dương giảm mạnh, hiện chỉ còn từ 45-50.000 đồng/kg, nên hiệu quả của hoạt động khai thác cá ngừ thấp.
* Còn hoạt động thu mua, chế biến, xuất khẩu thủy sản thì sao, thưa ông?
- Trên địa bàn tỉnh ta hiện có nhiều cơ sở thu mua thủy sản, trong đó có 10 cơ sở chuyên thu mua cá ngừ đại dương (chủ yếu làm đại lý thu mua cho các DN ngoài tỉnh). Thực tế cho thấy, sau khi tàu về cảng cá và lên cá, hầu hết các chủ tàu đều bán cho các chủ thu mua, sau đó họ bán lại cho các DN chế biến, một phần bán cho các chợ cá nội địa. Việc liên kết trong quản lý chuỗi sản phẩm khai thác vẫn chưa được thực hiện giữa chủ tàu, DN, nhà quản lý, nên giá hải sản bấp bênh, chất lượng sản phẩm tiềm ẩn nguy cơ không an toàn. Vào thời điểm tàu về nhiều, cung vượt cầu lớn và chất lượng cá giảm, ngư dân thường bị ép giá, ảnh hưởng đến thu nhập của bà con.
Trên lĩnh vực chế biến thủy sản, tỉnh ta có 5 nhà máy chế biến thủy sản công nghiệp, trong đó có 4 cơ sở ở TP Quy Nhơn và 1 cơ sở ở huyện Hoài Nhơn. Các nhà máy chủ yếu chế biến các mặt hàng tôm, cá đông lạnh với công suất thiết kế khoảng 10.000 tấn/năm. Nhìn chung năng lực chế biến xuất khẩu thủy sản ở tỉnh ta còn hạn chế.
Cơ sở hạ tầng phục vụ nghề cá tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Thực tế cảng cá Quy Nhơn đã được nâng cấp, mở rộng, diện tích tăng gấp 7 lần so với cảng cũ, nhưng vẫn quá tải trong thời điểm mùa vụ. Điều đó chứng tỏ, nhu cầu phục vụ của cảng cá Quy Nhơn vẫn chưa đáp ứng được hoạt động nghề cá của khu vực. Hơn nữa, hiện khu vực vệ sinh tại cảng cá vẫn chưa được đảm bảo; hệ thống cung cấp nước ngọt ra cầu cảng cho tàu thuyền không có; hệ thống điện chiếu sáng hoạt động nghề cá chưa hợp lý…
* Theo ông, tỉnh ta cần phải làm gì để khắc phục khó khăn, phát triển mạnh hoạt động nghề cá?
- Để khắc phục khó khăn, phát triển mạnh hoạt động nghề cá nói chung, tỉnh ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền, phát triển tàu thuyền có công suất lớn phục vụ đánh bắt xa bờ và công tác dự báo ngư trường, mùa vụ; tổ chức hợp tác sản xuất; chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống thu mua, hậu cần dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm; đồng thời tập trung xây dựng các cơ sở hậu cần kỹ thuật nghề cá. Đối với ngành nuôi trồng thủy sản, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm, tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh tôm nuôi, từng bước hình thành các vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung gắn với bảo vệ môi trường.
Trong lĩnh vực chế biến, xuất khẩu thủy sản, gắn chế biến với tạo nguồn nguyên liệu ổn định. Bước đầu thực hiện việc ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa các DN chế biến với ngư dân, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất nguyên liệu với DN chế biến xuất khẩu. Tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường đi đôi với phát triển các mặt hàng mới, nâng dần tỉ trọng các mặt hàng giá trị gia tăng cao. Thực hiện chiến lược đa dạng hóa mặt hàng, một mặt các DN thủy sản tự lực, mặt khác ngành Thủy sản xúc tiến phát triển các làng nghề ven biển nhằm mở thêm các mặt hàng đặc sản vốn là thế mạnh truyền thống của tỉnh ta, như: vi cước cá, cá cơm hấp, ruốc khô, mực xà khô và nước mắm. Các DN chế biến cũng cần nhanh chóng tăng cường hơn nữa công tác xúc tiến thương mại, chủ động tìm kiếm thị trường để sản phẩm thủy sản của tỉnh ta nhích gần hơn với yêu cầu thị trường trong khu vực và thế giới.
Hiện nay, ngành Nông nghiệp tỉnh đang triển khai một số biện pháp cụ thể nhằm phát huy hơn nữa tiềm năng và thế mạnh như: Thực hiện Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó tập trung hợp lý hóa việc tổ chức sản xuất nhằm phát triển nghề cá theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, cụ thể là xây dựng Đề án tổ chức lại khai thác thủy sản trên biển. Nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá. Phát triển chế biến và thương mại thủy sản trực tiếp nhằm tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thủy sản của địa phương, đặc biệt là đối với cá ngừ đại dương…
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nói trên, chúng tôi hy vọng sẽ khắc phục được khó khăn hiện tại, tạo điều kiện phát triển ngành nghề khai thác, thu mua, chế biến và xuất khẩu thủy sản bền vững hơn.
* Cảm ơn ông!
PHẠM TIẾN SỸ (Thực hiện)