Quyền bất khả xâm phạm về thân thể - nên kế thừa và phát triển thêm
Chương II của Dự thảo đề cập khá đầy đủ các nội dung liên quan đến quyền con người gắn với quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Có thể nói, đây là chương có nhiều điểm mới và nhiều điều được sửa đổi nhất so với nội dung về quyền con người trong Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, tôi xin tham gia một số vấn đề cụ thể sau đây:
Đối với Khoản 2, Điều 15, một kinh nghiệm hay khi soạn thảo văn bản mang tính chất quy phạm là những vấn đề gì không thể dự lường, dự báo được thì không nên sử dụng phương pháp liệt kê dễ dẫn đến thiếu chặt chẽ. Do vậy, không nên chi tiết hóa “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia...”, mà nên khái quát hóa, định tính, thành “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong một số trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật”.
Theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp thì, công lý phải minh bạch và đảm bảo quyền con người. Do vậy, các quy định về bắt giữ người phải hết sức chặt chẽ. Điều 71 của Hiến pháp 1992 quy định “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp tội phạm bắt quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”. Quy định như trên có thể nói là rất “ngặt nghèo”, nhưng trong thực tế, nhiều trường hợp cơ quan và người tiến hành tố tụng vẫn cố tình vi phạm quyền tự do thân thể của công dân. Do vậy, lẽ ra phải “siết chặt” hơn thì dự thảo sửa đổi kỳ này như có vẻ “nới lỏng” hơn các quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Theo tôi, Điều 22 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ngoài việc phải kế thừa, phát huy ưu điểm Điều 71 Hiến pháp 1992 thì cần phải được phát triển thêm, cụ thể như sau: “Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết định của tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”.
Khoản 1 Điều 31 quy định “Mọi người có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Để chặt chẽ hơn, đề nghị nên sửa từ “việc làm” thành từ “hành vi”. Vì nội hàm của “hành vi” bao gồm cả “tác vi”, nghĩa là “hành động” và “bất tác vi”, nghĩa là “không hành động”. Làm một việc mà pháp luật không cho phép thì rõ ràng là sai phạm nhưng cũng phải quy trách nhiệm đối với trường hợp khi không làm một việc mà thuộc trách nhiệm buộc phải làm, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích chính đáng của người khác.
Tại Điều 36 và 37 có quy định về “nơi ở” và “chỗ ở” hợp pháp. Theo cách hiểu của tôi, 2 điều luật trên thể hiện “nơi ở hợp pháp” thì không có quyền bất khả xâm phạm còn “chỗ ở hợp pháp” mới có quyền bất khả xâm phạm. Cách diễn đạt này không ổn. “Nơi ở” và “chỗ ở hợp pháp” đều là quyền cơ bản của công dân. Nếu “nơi ở” và “chỗ ở” là một thì nên sửa lại “nơi ở” trong Điều 36 thành “chỗ ở” cho phù hợp với Điều 37. Ngược lại, nếu hai khái niệm này không đồng nhất thì công dân cũng có quyền bất khả xâm phạm về “nơi ở”.
PHẠM DÂN