Dự án Sinh kế nông thôn bền vững giai đoạn 2:
Tiếp tục hỗ trợ nông dân sản xuất rau an toàn và kết nối thị trường
Giai đoạn 2016-2021, Chính phủ New Zealand tiếp tục tài trợ cho tỉnh ta thực hiện Dự án (DA) Sinh kế nông thôn bền vững (SKNTBV) giai đoạn 2. Hiện nay, ngành chức năng của tỉnh đang triển khai nhiều biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả DA. PV Báo Bình Ðịnh đã phỏng vấn ông Phan Trọng Hổ, Giám đốc Sở NN&PTNT, về vấn đề này.
● Xin ông cho biết sự tác động của DA SKNTBV giai đoạn 1 sau khi triển khai thực hiện tại tỉnh ta?
- Giai đoạn 1 DA SKNTBV kết nối hộ nông dân nghèo với thị trường do Chính phủ New Zealand hỗ trợ được thực hiện tại tỉnh ta từ tháng 3.2009 đến tháng 3.2015, với 4 hợp phần: Rau an toàn (RAT) được chứng nhận; tăng thu nhập từ cây dừa; các hệ thống chăn nuôi có lãi; quản lý dự án, được thực hiện tại Tây Sơn, Tuy Phước, An Nhơn, Hoài Ân, Phù Cát, Hoài Nhơn, Phù Mỹ.
Theo đánh giá của nhà tài trợ, tất cả các hợp phần nói trên đều đảm bảo yêu cầu đề ra, mang lại cả lợi ích kinh tế và xã hội. Trong đó, về hiệu quả kinh tế, DA đã góp phần tăng mức lợi nhuận trên 30% đối với RAT; tăng trên 100% đối với nghề chăn nuôi bò và tăng 300% đối với hoạt động xe sợi dừa tại nhà.
Về tác động xã hội, DA đã tạo việc làm và thu nhập ổn định cho 1.246 hộ gia đình ở nông thôn, trong đó có 42% là phụ nữ. Thông qua DA, vai trò của phụ nữ trong gia đình và cộng đồng được nâng cao... Sau khi giai đoạn 1 của DA kết thúc, không chỉ có các đối tượng trực tiếp tham gia DA mà nhiều nông hộ khác cũng đã học tập và áp dụng hiệu quả quy trình sản xuất RAT, chăn nuôi bò vỗ béo, se sợi chỉ xơ dừa. Việc duy trì và phát triển các hoạt động giai đoạn 1 của DA góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn, góp phần giúp các địa phương hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
Sản xuất rau an toàn mang lại nhiều lợi ích, nên sau khi kết thúc giai đoạn 1 Dự án SKNTBV, nhiều thành viên HTXNN Phước Hiệp (xã Phước Hiệp, Tuy Phước) vẫn duy trì sản xuất. Ảnh: T.SỸ
● Giai đoạn 2 DA SKNTBV có gì khác so với trước đây, và mục tiêu của DA như thế nào?
- Giai đoạn 2 DA SKNTBV được thực hiện từ tháng 6.2016 đến tháng 5.2021 tại Tuy Phước, An Nhơn, Tây Sơn, Vĩnh Thạnh với chỉ 1 hợp phần duy nhất là sản xuất RAT. Mục tiêu của DA là nhằm cải thiện sự an toàn, tính bền vững về kinh tế và môi trường cho người nông dân trồng rau và sự an toàn cho người tiêu dùng trong tỉnh. Cụ thể, năm đầu tiên thực hiện giai đoạn 2 của DA, tỉnh ta sẽ xây dựng các tiêu chuẩn về RAT; xác định các nhóm mục tiêu nông dân và có 200 nông dân tham gia khai trương DA RAT. Năm thứ 2, việc thực hiện sản xuất RAT bắt đầu với khoảng 200 nông dân; năm thứ 3 có thêm khoảng 300 nông dân tham gia; từ năm thứ 4-5 có tổng cộng khoảng 2.000 nông dân tham gia và được cấp giấy chứng nhận về sản xuất RAT. Từ năm thứ 5 - 6, có 7.400 nông dân trong tỉnh được chứng nhận sản xuất RAT, diện tích 740 ha, sản lượng 13.000 tấn/năm. Có thể nói, phạm vi thực hiện hợp phần RAT giai đoạn 2 của DA rộng hơn, số lượng người dân tham gia nhiều hơn, diện tích và sản lượng RAT cũng lớn hơn nhiều so với trước.
● Ngành Nông nghiệp tỉnh đã và đang triển khai những biện pháp gì để đảm bảo mục tiêu của DA, thưa ông?
- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh, thời gian qua, Sở NN&PTNT đã thành lập các tổ công tác triển khai khảo sát diện tích có thể sản xuất RAT tại xã Vĩnh Sơn (huyện Vĩnh Thạnh); phường Nhơn Hưng (thị xã An Nhơn); khối Thuận Nghĩa (thị trấn Phú Phong – Tây Sơn) và xã Phước Hiệp (Tuy Phước); đồng thời tham khảo ý kiến của chính quyền và người dân các địa phương trong việc tổ chức sản xuất RAT.
Dự kiến, chúng tôi sẽ củng cố các nhóm đồng sở thích sản xuất RAT hiện có tại xã Phước Hiệp và khối Thuận Nghĩa, đồng thời thành lập mới 3 nhóm đồng sở thích sản xuất RAT tại xã Vĩnh Sơn, phường Nhơn Hưng và xã Phước Hiệp, mỗi nhóm khoảng 25 hộ dân tham gia. Sau khi lựa chọn các hộ dân tham gia, ổn định tổ chức các nhóm đồng sở thích sản xuất RAT, Sở NN&PTNT sẽ phối hợp với Viện Nghiên cứu cây trồng và thực phẩm của New Zealand xây dựng các hệ thống sản xuất và xử lý sau thu hoạch RAT; xác định và thống nhất những yêu cầu chính yếu về cơ sở hạ tầng chuỗi cung ứng RAT, như kho lạnh, các xưởng đóng gói sản phẩm.
Nâng cao năng lực cho cán bộ ngành Nông nghiệp để hỗ trợ các đối tượng hưởng lợi từ DA, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có trách nhiệm và thực hành nông nghiệp tốt (GAP) để sản xuất rau, tuân thủ các quy định quốc gia về mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cho phép. Hướng dẫn người sản xuất RAT những quy trình xử lý sau thu hoạch nhằm cung cấp các sản phẩm RAT cho thị trường. Phát triển và thực hiện một chiến lược tiếp thị và thương hiệu để có thể tiếp thị sản phẩm RAT của DA, tăng nhu cầu của người tiêu dùng và nâng cao thu nhập cho người nông dân và những người tham gia trong chuỗi cung ứng RAT.
● Xin cảm ơn ông!
PHẠM TIẾN SỸ
(Thực hiện)