Nhân rộng sáng kiến canh tác lúa thích ứng úng ngập và nhiễm mặn
Ðầu tháng 9.2016, tại Hà Nội, tỉnh Bình Ðịnh đã tham gia triển lãm về nhân rộng các Sáng kiến xanh với Dự án (DA) “Chuyển giao kỹ thuật canh tác lúa thích ứng úng ngập và nhiễm mặn cho cộng đồng, nhằm duy trì sản xuất lúa hiệu quả, hạn chế tình trạng hoang hóa đất trồng lúa trong điều kiện nhiễm mặn gia tăng vì nước biển xâm nhập sâu do tác động của biến đổi khí hậu ở vùng ven đê Ðông”.
Các đại diện của Bình Định (hàng đầu, người thứ nhất và thứ hai bên phải) tham gia triển lãm Sáng kiến xanh.
Triển lãm do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) tổ chức lần đầu tiên, có sự tham gia của 15 DA. Đây là những sáng kiến bảo vệ môi trường, cải thiện sinh kế và nâng cao cuộc sống người dân địa phương, được Chương trình tài trợ nhỏ của Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) và UNDP hỗ trợ.
Đại diện cho tỉnh Bình Định tham gia sự kiện này là TS. Nguyễn Thị Tố Trân, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh (Sở NN&PTNT) - đại diện cho nhóm chuyên gia thực hiện DA - và ông Nguyễn Minh Chuẩn (ở xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước) - đại diện hộ dân thực hiện DA.
DA sản xuất lúa vùng đất ngập úng và nhiễm mặn đến với nông dân Bình Định từ năm 2009, do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh chủ trì thực hiện. Giai đoạn 1 của DA được triển khai từ tháng 10.2009 đến tháng 4.2012, tại 2 thôn Kim Đông và Tân Giản (xã Phước Hòa). Tháng 9.2014, GEF tiếp tục hỗ trợ Bình Định thực hiện giai đoạn 2 của DA (kéo dài đến tháng 4.2017), với địa bàn hưởng lợi mở rộng ra 4 xã: Phước Sơn, Phước Hòa (huyện Tuy Phước) và Cát Chánh, Cát Tiến (huyện Phù Cát).
DA hướng đến mục tiêu chuyển giao kỹ thuật sản xuất lúa thâm canh thích ứng úng ngập và xâm nhập mặn cho cộng đồng vùng trũng ven đê Đông. Qua đó, nâng cao năng lực sản xuất lúa trong điều kiện mưa lũ bất thường, triều cường, xâm nhập mặn gia tăng bởi tác động biến đổi khí hậu, để duy trì vùng sản xuất lúa hiệu quả, hạn chế bỏ hoang hóa, thoái hóa đất, duy trì sinh kế cho người dân.
Đến nay, mô hình canh tác lúa thích ứng úng ngập và nhiễm mặn được nhân rộng tại 2 huyện Tuy Phước và Phù Cát.
Đến thời điểm này, DA đã được các hộ sản xuất và ngành NN&PTNT đánh giá cao, có thể áp dụng trên diện rộng cho vùng trồng lúa ngập úng, nhiễm mặn của tỉnh.
Theo kỹ sư Nguyễn Văn Độ, cán bộ Trạm Khuyến nông huyện Tuy Phước, DA đã lựa chọn phương thức chuyển giao kỹ thuật dựa vào cộng đồng; nông dân tham gia trong tất cả các khâu xây dựng quy trình kỹ thuật, tuyển chọn và khảo nghiệm giống lúa phù hợp...
“DA chú trọng các giải pháp kỹ thuật quản lý dinh dưỡng cân đối, quản lý dịch hại tổng hợp để giúp hạn chế việc sử dụng phân bón vô cơ không phù hợp; đặc biệt, thông qua sạ mật độ hợp lý, bón phân cân đối, đã hạn chế điều kiện cho các loại sâu bệnh phát sinh. Ðồng thời, chú trọng hướng dẫn người dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc “4 đúng”, giảm tình trạng lạm dụng thuốc trừ sâu, bệnh (giảm số lần phun thuốc bảo vệ thực vật từ 2-4 lần/vụ). Qua đó, hạn chế dư lượng thuốc bảo vệ thực vật gây ô nhiễm môi trường, nguồn nước, tích tụ hóa chất độc hại trong nông sản ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng” - TS. Nguyễn Thị Tố Trân
Kết quả cho thấy, giống lúa chống chịu ngập úng, phèn mặn được chọn là giống ĐV108 (từ năm 2016, sẽ là giống ĐV108 phục tráng) rất phù hợp. “Qua các mô hình thử nghiệm, vụ Thu năm nay, huyện Tuy Phước đã nhân rộng canh tác lúa thích ứng úng ngập và nhiễm mặn trên diện tích 50 ha trồng lúa của các xã Phước Sơn và Phước Hòa, thông qua chương trình cánh đồng mẫu lớn của huyện” - ông Độ cho biết.
Các giải pháp kỹ thuật canh tác trong mô hình DA đã được trình diễn không phức tạp, có cơ sở khoa học và đã kiểm chứng qua thực tiễn nên dễ chuyển giao, áp dụng ra diện rộng cho các vùng có điều kiện tương tự gồm các xã vùng trũng ven đê Đông của tỉnh. Hiện nay, mô hình đã được lồng ghép với các chương trình khác để mở rộng ứng dụng ở các vùng sản xuất nằm trong kế hoạch phát triển ứng phó biến đổi khí hậu. Sở NN&PTNT đã có kế hoạch phát triển các giống lúa thích ứng úng ngập, phèn mặn; tổ chức chuyển giao kỹ thuật canh tác lúa thích ứng cho người dân khu vực vùng ven đê Đông.
TS. Nguyễn Thị Tố Trân khẳng định: “Thông qua việc duy trì sản xuất lúa trong điều kiện khó khăn, DA cũng đã giúp hạn chế việc thoái hóa đất xảy ra khi diện tích đất lúa đang bị xâm nhập mặn gia tăng, ngày càng bị nhiễm mặn, thoái hóa dần, có thể sẽ không thể canh tác, bị bỏ hoang”.
THU HIỀN